Người Bahnar ăn trầu

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Chắc hẳn là thời trước không có gia đình Việt nào lại không ăn trầu. Trầu trồng không đáp ứng đủ, vì thế phải dùng đến cả trầu rừng. Khai thác và buôn bán trầu rừng đã trở thành một nghề khá thịnh. Cũng bởi thế nên ở Bình Định xưa mới có bến Trường Trầu. Và theo sử sách ghi lại thì Nguyễn Nhạc trước khi trở thành thủ lĩnh của nghĩa quân Tây Sơn cũng đã đi buôn trầu nên dân gian vẫn gọi là “anh Hai Trầu”.



Tất nhiên, buôn trầu với Nguyễn Nhạc chỉ là cái cớ để đi sâu vào vùng thượng đạo xem xét địa thế, liên kết với các tù trưởng Bahnar tính chuyện bày binh bố trận sau này. Qua những câu chuyện lưu truyền đến nay có thể thấy rằng, niềm tin của đồng bào dân tộc Bahnar đối với ông là rất lớn. Họ không chỉ đi lính cho ông, giúp ông tài lực để chuẩn bị khởi nghĩa mà còn ảnh hưởng từ ông các phong tục tập quán của người Việt. Một trong những ảnh hưởng rõ nét nhất còn lưu dấu đến ngày nay đó là tục ăn trầu.

 Bà Đinh HLách. Ảnh: N.T
Bà Đinh H'Lách. Ảnh: N.T



Cách đây gần chục năm, khi tôi đến làng Tờ Mật (xã Đông, huyện Kbang), những người già ở đây khẳng định với tôi rằng, tục lệ này chỉ bắt đầu có từ thời bok Nhạc (Nguyễn Nhạc). Theo lời ông bà truyền lại thì ngày xưa Kbang rất nhiều trầu rừng. Nghe bok Nhạc bảo đi lấy về đổi muối, đổi dao thì đồng bào rất mừng. Công việc kéo dài đến cả gần chục mùa rẫy. Từ sự trao đổi hàng hóa tiến đến sự thân tình, họ học theo ông nhuộm răng đen rồi ăn trầu…

Tôi vẫn nhớ câu chuyện bà Đinh H'Lách (làng Tờ Mật) kể năm ấy. Bà kể rằng thời bà còn con gái, gần như làng Bahnar nào cũng có tục nhuộm răng đen và ăn trầu. Bởi vậy trước nhà người Bahnar bao giờ cũng có hàng cau, giàn trầu. Cũng như người Kinh, đám cưới, đám ma, bỏ mả hay những việc hiếu hỉ đều phải có miếng trầu. Nhưng rồi theo thời gian, “miếng trầu là đầu câu chuyện” cứ phai nhạt dần. Bây giờ thì gần như chỉ còn mỗi làng Tờ Mật. Mà cũng chỉ lác đác vài phụ nữ lớn tuổi như bà, cánh đàn ông đã bỏ từ lâu. Làng cũng không còn một cây cau nào, muốn ăn phải ra chợ mua của người Kinh.

Theo bà H'Lách thì xưa cũng như nay, miếng trầu của người Bahnar chỉ khác người Kinh ở món vôi. Vì không có đá vôi nên người ta phải lấy vỏ ốc, đốt bằng gốc le già cho cháy thành than thay vôi. Để nước trầu thêm đỏ và ngọt, họ dùng vỏ rễ cây chay ăn kèm.  

Miếng trầu, quả cau từ buổi bình minh lịch sử đã trở thành một nét văn hóa đặc trưng của người Việt. Hơn thế có thể nói rằng cùng với hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình, miếng trầu đã trở thành hồn cốt của văn hóa Việt. Chẳng phải ngẫu nhiên mà trong cuộc sống hiện đại, dù chẳng còn mấy ai ăn trầu thì đám cưới nên duyên đôi lứa vẫn không thể thiếu miếng trầu.

Tập quán ăn trầu của đồng bào Bahnar vì thế không đơn thuần là sự bắt chước như có người đã nghĩ. Ngược lại đó là sự lĩnh hội một giá trị văn hóa, một giá trị của cái đẹp để làm giàu thêm cho kho tàng văn hóa của mình.

Giữa cái nắng ban trưa hoang hoải, nhìn bà H'Lách vừa bỏm bẻm nhai trầu vừa nhẩn nha kể chuyện, lòng tôi khi ấy chợt ấm lại. Đã xa đâu cái đẹp của một thời “Nét cười đen nhánh sau tay áo/Trong ánh trưa hè trước giậu thưa…”.  

NGỌC TẤN

Có thể bạn quan tâm

Những người giữ hồn dân ca Jrai

Những người giữ hồn dân ca Jrai

(GLO)- Nhằm bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa của dân tộc Jrai, nhiều nghệ nhân ở xã Ia Rbol (thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai) từng ngày âm thầm lưu giữ những làn điệu dân ca như một cách thể hiện tình yêu với cội nguồn.

Lưu giữ “men say” của đại ngàn

Lưu giữ “men say” của đại ngàn

(GLO)- Hiện nay, nhiều gia đình người dân tộc thiểu số ở Gia Lai vẫn giữ nghề ủ rượu cần truyền thống từ men lá tự nhiên. Theo thời gian, họ đã cùng nhau lưu giữ “men say” của đại ngàn, giúp cho thức uống mang đậm dấu ấn văn hóa của cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên được chắp cánh bay xa.

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

(GLO)- Đây là số cuối cùng của chuyên mục “Gương mặt thơ” trên báo Gia Lai Cuối tuần do tôi phụ trách.Chuyên mục đã đi được hơn 2 năm (từ tháng 10-2022), tới nay đã giới thiệu tác phẩm của hơn 100 nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn cả nước.

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

(GLO)- Rời quê vào thôn Đà Bắc (xã Ia Lâu, huyện Chư Prông) lập nghiệp đã hơn 30 năm, nhưng cộng đồng người Mường vẫn luôn duy trì và nỗ lực bảo tồn văn hóa cồng chiêng của dân tộc. Với họ, “giữ lửa” cồng chiêng chính là cách làm thiết thực nhất tạo sự gắn kết bền chặt với quê hương, nguồn cội.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản có tiềm năng khai thác kinh tế du lịch. Ảnh: Minh Châu

Những ngày làm hồ sơ “Không gian văn hóa cồng chiêng”

(GLO)- Ngày 23-3-2004, Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch) ban hành quyết định về việc xây dựng hồ sơ ứng cử quốc gia “Vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là di sản tiếp nối trình UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.

Về miền di sản

Về miền di sản

(GLO)- Những địa danh lịch sử, điểm di sản là nơi thu hút nhiều người đến tham quan, tìm hiểu. Được tận mắt chứng kiến và đặt chân lên một miền đất giàu truyền thống luôn là trải nghiệm tuyệt vời và xúc động đối với nhiều người.

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

(GLO)- Tại Kỳ họp thứ 19 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể diễn ra tại Thủ đô Asunción (Cộng hòa Paraguay) vào ngày 4-12, UNESCO đã chính thức ghi danh Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam của Việt Nam vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

(GLO)- Năm 1993, Sở Văn hóa-Thông tin (VH-TT) và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai đã ký kết chương trình phối hợp hành động với nhiều hoạt động thiết thực, trong đó có mô hình “Điểm sáng văn hóa vùng biên”.