Yếu tố tâm linh trong các di tích Tây Sơn Thượng đạo

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Là căn cứ địa buổi đầu của phong trào Tây Sơn (1771-1773) nên ngày nay, trên vùng đất Thượng đạo, bên cạnh những dấu vết vật chất thì trong tâm khảm của cả người Kinh và người Thượng, những tình cảm tốt đẹp dành cho anh em Tây Sơn vẫn đậm nét. Những truyền thuyết về sự linh thiêng của các nhân vật đứng đầu phong trào Tây Sơn vẫn được người dân truyền miệng. Dù trải qua không ít thăng trầm do hoàn cảnh lịch sử nhưng việc thờ cúng Tây Sơn tam kiệt ở các đình, miếu trong vùng vẫn được tiến hành dưới nhiều hình thức.
Nhiều tư liệu đã chứng minh, từ cuối thế kỷ XVII, người Việt đã có mặt khai phá vùng đất Tây Sơn Thượng đạo. Nhưng đến khi anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ xây dựng căn cứ địa trên vùng đất này (1771), bên cạnh cư dân tại chỗ là người Bahnar, An Khê và vùng phụ cận chỉ có 2 khu vực định cư của người Việt là ấp Tây Sơn Nhất và ấp Tây Sơn Nhị.
Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn (1802), nhà Nguyễn mới cho thiết lập ở vùng Thượng đạo những nguồn sở để thu thuế như nguồn Cầu Bông, Phương Kiệu (1829). Năm 1877 mới đặt Nha Kinh lý An Khê, đặt quan lại, mộ dân khai khẩn ở bờ Đông và mở rộng sang bờ Tây sông Ba. Đến năm 1933, huyện Tân An (tỉnh Kon Tum) lúc ấy mới có 29 làng người Việt, chia làm 3 tổng: tổng An Khê (12 làng), tổng Tân Phong (13 làng) và tổng Mang Yang (4 làng).
Xét theo logic lịch sử, trên vùng Thượng đạo, bộ phận dân cư có sự gắn bó mật thiết với anh em Tây Sơn chính là đồng bào các dân tộc thiểu số trong vùng, đặc biệt là người Bahnar và người Việt ở các ấp Tây Sơn Nhất và Tây Sơn Nhị. Từ cuộc khảo sát năm 1976-1977, ông Nguyễn Quang Ngọc (khi ấy là sinh viên mới ra trường, nay là GS-TS-Nhà giáo Nhân dân) đã xác định, ấp Tây Sơn Nhất là ở thôn An Lũy, xã Cư An (nay là phường Tây Sơn, thị xã An Khê). Còn ấp Tây Sơn Nhị nay là xã Cửu An.
Thực tế ủng hộ logic trên, vì ngay từ lần khảo sát đầu tiên (năm 1976-1977, do GS. Phan Huy Lê và các học trò thực hiện); lần thứ hai (năm 1987-1990, do Bảo tàng tỉnh Gia Lai-Kon Tum và huyện An Khê thực hiện) thì nơi lưu giữ nhiều nhất những ký ức về anh em Tây Sơn, di tích về phong trào Tây Sơn vẫn là khu vực người Bahnar và người Kinh ở Tây Sơn Nhất, Tây Sơn Nhị và phụ cận.
Lễ kỷ niệm 230 năm chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa tại An Khê trường. Ảnh: INTERNET
Lễ kỷ niệm 230 năm chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa tại An Khê trường. Ảnh: INTERNET
Tiếc rằng, triều đại Tây Sơn tồn tại quá ngắn ngủi (1778-1802). Sau khi bị đánh bại, nhà Tây Sơn đã bị nhà Nguyễn trả thù tàn khốc. Nhiều di tích, di vật liên quan đến nhà Tây Sơn và phong trào Tây Sơn bị hủy hoại, trong đó có nhiều cơ sở tâm linh.
Theo GS. Phan Đại Doãn và GS. Phan Huy Lê, ở Tây Sơn Hạ đạo, tại Phú Lạc-quê ngoại của anh em Nguyễn Nhạc, các di tích như Gò Lăng, miếu Sơn Quân, đình Phú Lạc… đều bị tàn phá. Sau này, người dân Phú Lạc lập đình, bên ngoài là thờ Thành hoàng để che mắt chính quyền nhà Nguyễn, nhưng thực tế là thờ “Ba Ngài Tây Sơn”. Lễ cúng Ba Ngài không có văn tự. Tiên chỉ chỉ “mật cáo” mời hương hồn Ba Ngài về. Còn ở miếu Sơn Quân (miếu Cây Thị), tức miếu thờ thần núi, cũng có người cho rằng, đó là nơi thờ ông bà Hồ Phi Phúc (thân sinh của anh em Tây Sơn). Ở Kiên Mỹ, tương truyền, trên nền của ngôi nhà anh em Tây Sơn bị nhà Nguyễn phá hủy, người dân cũng dựng lên ngôi đình Kiên Mỹ nhằm bí mật thờ “Ba Ngài Tây Sơn”. Để che mắt vua quan triều Nguyễn, dân làng phải ngụy trang việc thờ cúng bằng cách khai Thành hoàng và xin sắc phong của nhà Nguyễn về thờ.
Trên vùng Thượng đạo, từ cuộc khảo sát năm 1977, GS-TS. Nguyễn Quang Ngọc cho biết, đình An Lũy thờ Bạch mã thượng đẳng thần; Thiên Y A Na Diễn Ngọc phi tôn thần; Tam vị Thái tử tướng quân; Thượng trung hạ đẳng dương thần liệt vị; Thượng trung hạ đẳng âm thần liệt vị; Tiên nông tiên sắc chi thần; Bản xứ thổ địa chính thần; Kim niên hành khiển hành binh chi thần; Sơn Lâm chúa xứ chi thần; Ngũ cơ thần tượng chi thần; Thổ công, Táo quân, Tiền hiền, Hậu hiền… Đây cũng là tên những vị thần được thờ cúng ở hầu khắp các đình, miếu trên vùng Thượng đạo.
Nhưng cũng ngay từ ngày ấy, ông đã viết: “Ở đình An Khê, nhân dân thờ cúng quanh năm, suốt đời mà không biết thờ ai trong đó. Có người đoán là đình thờ vua Quang Trung, lại có người đoán là đình thờ Lê Văn Duyệt. Cũng giống như ở đình Kiên Mỹ (Phú Phong, Bình Định) và đình Cửu An (An Khê), đây là hiện tượng thờ đa thần rất phức tạp, cần nghiên cứu kỹ và nhất là nghiên cứu so sánh với Kiên Mỹ, Cửu An… Đặc biệt là 3 dinh, tức 3 miếu thờ trước đình An Khê, theo các cụ già địa phương là thờ Bổn xứ Thành hoàng, Hai Cô và Sơn Lâm chúa xứ, nhưng cũng có cụ nói là thờ trá hình Ba Ngài Tây Sơn. Vậy hiện tượng này có thực hay không? Và có quan hệ gì với việc thờ trá hình ở Kiên Mỹ không?”.  
Năm 1988, khi đến lập hồ sơ đề nghị xếp hạng di tích cấp Quốc gia cho quần thể Di tích Tây Sơn Thượng đạo, cuộc phỏng vấn của chúng tôi với các cụ Bùi Tấn Tòng, Mười Chương… đã khẳng định việc thờ anh em Tây Sơn dưới dạng ẩn danh (không biết thờ ai-như ở An Khê trường) và thờ trá hình (tức là thờ sang đối tượng khác như ở An Khê đình).
Tại Cửu An, trong cuộc khảo sát năm 2005 và năm 2014, các bô lão địa phương (gồm: Đặng Lạo, Nguyễn Công Lựu, Bùi Thế Xuân, Nguyễn Tráng Kiện) cho biết: Đình Cửu An cũ được lập để thờ 3 anh em Tây Sơn từ thời Nguyễn Quang Toản (1792-1802). Nhưng sau khi nhà Nguyễn (Gia Long) tiến hành trả thù nhà Tây Sơn, nhân dân Cửu An không còn dám công khai thờ các ông Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ nữa. Cửu An còn có Dinh Bà (ở thôn An Điền Bắc) nằm trên Núi Đất cũng được các bô lão khẳng định là nơi dân làng lập để thờ Yă Đố-người vợ Bahnar của Nguyễn Nhạc đã góp công xây dựng lực lượng hậu cần cho quân đội Tây Sơn trong những năm đầu khởi nghĩa.
Từ sau năm 1975 đến nay, cũng như ở Tây Sơn Hạ đạo, trên cơ sở các nghiên cứu đã được công bố, các địa phương trong vùng Thượng đạo và ngành chức năng đã có nhiều hoạt động ý nghĩa nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di tích, trong đó có việc chính thức đưa “Ba Ngài Tây Sơn” vào thờ cúng ở An Khê trường, An Khê đình, đình Cửu An…, nơi đã nuôi dưỡng phong trào Tây Sơn từ những ngày trứng nước. Đây là một việc làm hợp lòng dân, thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của người Việt chúng ta.
TS. NGUYỄN THỊ KIM VÂN

Có thể bạn quan tâm

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

(GLO)- Tại Kỳ họp thứ 19 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể diễn ra tại Thủ đô Asunción (Cộng hòa Paraguay) vào ngày 4-12, UNESCO đã chính thức ghi danh Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam của Việt Nam vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

(GLO)- Năm 1993, Sở Văn hóa-Thông tin (VH-TT) và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai đã ký kết chương trình phối hợp hành động với nhiều hoạt động thiết thực, trong đó có mô hình “Điểm sáng văn hóa vùng biên”.

Mừng lúa mới trên cao nguyên

Mừng lúa mới trên cao nguyên

(GLO)- Sau khi thu hoạch mùa vụ và đưa lúa về kho, đồng bào Jrai náo nức với lễ mừng lúa mới. Nghi lễ nông nghiệp cổ truyền độc đáo này đã được bà con duy trì từ bao đời nay.

Biến sản phẩm văn hóa thành quà tặng du lịch

Biến sản phẩm văn hóa thành quà tặng du lịch

(GLO)- Quà lưu niệm từ sản phẩm văn hóa vừa là “sứ giả” du lịch, vừa góp phần đem lại thu nhập cho người dân. Việc tổ chức các cuộc thi tay nghề đan lát, dệt thổ cẩm nhằm tìm kiếm sản phẩm đặc sắc làm quà tặng đã góp phần nâng cao đời sống người dân và thúc đẩy du lịch nông thôn phát triển.

Tiết mục hát dân ca của em Đinh Doanh và đoàn nghệ nhân xã Pờ Tó trong chương trình “Cồng chiêng cuối tuần-Thưởng thức và trải nghiệm” tại huyện Ia Pa. Ảnh: V.C

Cồng chiêng cuối tuần trở lại Ia Pa

(GLO)- Tối 17-11, chương trình “Cồng chiêng cuối tuần-Thưởng thức và trải nghiệm” tiếp tục được tổ chức tại huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai. Chương trình mang đến nhiều tiết mục đặc sắc làm nức lòng người dân và du khách.

Giá trị của liên hoan

Giá trị của liên hoan

Liên hoan Cải lương toàn quốc năm 2024 tổ chức tại TP Cần Thơ vừa khép lại. Bên cạnh những hồ hởi, vui vẻ, nhiều nỗi niềm của sân khấu cải lương truyền thống cũng đã bộc lộ trong mùa liên hoan năm nay.

Chuyện một “công trình sư” Bahnar

Chuyện một “công trình sư” Bahnar

(GLO)- Sau khi hoàn tất việc cắt lúa, ông Chánh thư thái ngồi trò chuyện cùng chúng tôi bên ghè rượu. Phẩm chất nghệ sĩ của người nông dân với tư cách “công trình sư” một loạt công trình, mô hình ghi dấu bản sắc văn hóa tại Quảng trường Đại Đoàn Kết (TP. Pleiku) hiện diện trước mặt chúng tôi.

Các nghệ nhân làng Chuet 2 (phường Thắng Lợi) phục dựng lễ báo hiếu cha mẹ tại Làng Văn hóa-Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ảnh: Thu

Lễ báo hiếu của người Jrai

(GLO)- Lễ báo hiếu cha mẹ là tập tục văn hóa truyền thống đã có từ xa xưa trong đời sống của cộng đồng người Jrai. Đây là dịp để những người con đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục và cầu mong thần linh ban sức khỏe cho cha mẹ.

Bảo tồn bản sắc làng Bahnar - Kỳ cuối: Cần phát huy giá trị văn hóa truyền thống

Bảo tồn bản sắc làng Bahnar - Kỳ cuối: Cần phát huy giá trị văn hóa truyền thống

(GLO)- Cách đây gần 18 năm, trong một số công trình điều tra văn hóa các làng đồng bào dân tộc thiểu số ở TP. Pleiku thì người ta xếp một số buôn làng trong khu vực, trong đó có làng Wâu và Ktu (xã Chư Á) là làng tương đối có giá trị, đưa vào diện bảo tồn và phát triển.

Sân trường rộn tiếng cồng chiêng

Sân trường rộn tiếng cồng chiêng

(GLO)- Cứ mỗi buổi sinh hoạt, khuôn viên Trường Phổ thông Dân tộc bán trú THCS Lơ Pang (xã Lơ Pang, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai) lại rộn ràng tiếng cồng chiêng. Âm thanh quen thuộc ấy đến từ đôi tay nhỏ bé của các em học sinh thuộc Câu lạc bộ (CLB) Cồng chiêng của trường.