Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai trả lời kiến nghị của cử tri TP. Pleiku

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News

(GLO)- Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai vừa có Công văn số 2006/UBND-NC về việc trả lời và chỉ đạo giải quyết một số ý kiến, kiến nghị của cử tri các địa phương tại kỳ họp thứ tư HĐND tỉnh khóa XII. Báo Gia Lai điện tử trích đăng nội dung trả lời cử tri TP. Pleiku.


Kiến nghị:Đề nghị UBND tỉnh có giải pháp tăng cường đầu tư trang-thiết bị chuyên dùng cho Bệnh viện Đa khoa tỉnh Gia Lai, nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu khám-chữa bệnh cho Nhân dân.

Cử tri kiến nghị UBND tỉnh Gia Lai có giải pháp tăng cường đầu tư trang thiết bị chuyên dùng cho Bệnh viện Đa khoa tỉnh Gia Lai, nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu khám-chữa bệnh cho Nhân dân.
Cử tri kiến nghị UBND tỉnh Gia Lai có giải pháp tăng cường đầu tư trang-thiết bị chuyên dùng cho Bệnh viện Đa khoa tỉnh, nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu khám-chữa bệnh cho Nhân dân. Ảnh: Thanh Nhật



Trả lời: Xác định Bệnh viện Đa khoa tỉnh là bệnh viện tuyến cuối của tỉnh, thời gian qua, UBND tỉnh đã ưu tiên đầu tư bổ sung nhiều hạng mục cơ sở vật chất, trang-thiết bị y tế để nâng cao năng lực khám-chữa bệnh, phục hồi chức năng. Một số thiết bị chuyên dùng, kỹ thuật cao đã được đầu tư như Hệ thống chụp cắt lớp CT Scanner 128 lát cắt; máy chụp cộng hưởng từ MRI 1,5 Tesla; hệ thống phẫu thuật nội soi; các trang-thiết bị hỗ trợ phẫu thuật thần kinh, sọ não; máy lọc máu liên tục; Hệ thống ECMO (tim, phổi nhân tạo)... Đặc biệt năm 2021, đã được tỉnh bố trí kinh phí để trang bị hệ thống chụp mạch xóa nền 1 bình diện cao cấp và một số thiết bị khác giúp hỗ trợ trong khám chẩn đoán và can thiệp tim mạch với kinh phí hơn 33 tỷ đồng. Một số thiết bị chuyên dùng và thiết bị kỹ thuật cao khác cũng sẽ được tiếp tục bổ sung trong thời gian tới; dự kiến đầu tư Hệ thống máy xạ trị giúp điều trị ung thư và các bệnh lý ung bướu khác... sẽ từng bước góp phần nâng cao chất lượng khám-chữa bệnh cho Nhân dân.

Ủy ban nhân dân tỉnh giao Sở Y tế theo dõi, chỉ đạo Bệnh viện Đa khoa tỉnh thực hiện tốt công tác mua sắm, quản lý, sử dụng có hiệu quả trang-thiết bị y tế đi đôi với công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, chuyển giao kỹ thuật cho đội ngũ y tế để nâng cao chất lượng khám-chữa bệnh.

Kiến nghị: Việc thực hiện Quyết định số 441/QĐ-UBND, ngày 25-7-2021 của UBND tỉnh Gia Lai về chính sách hỗ trợ người lao động không có giao kết hợp đồng lao động và một số đối tượng đặc thù khác gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Đề nghị UBND tỉnh, Sở Lao động-Thương binh và Xã hội có ý kiến cấp thẩm quyền mở rộng thêm đối tượng được hỗ trợ như: nhân viên làm tại các cơ sở bida; intenet; xông hơi, massage.

Trả lời: Thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 1-7-2021 của Thủ tướng Chính phủ, để kịp thời hỗ trợ đối với lao động không có giao kết hợp đồng lao động (lao động tự do) và một số đối tượng đặc thù khác, UBND tỉnh Gia Lai đã ban hành Quyết định số 441/QĐ-UBND ngày 25-7-2021 về việc thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động không có giao kết hợp đồng lao động và một số đối tượng đặc thù khác gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Qua hơn 4 tháng thực hiện, các huyện, thị xã, thành phố đã hỗ trợ cho 8.656 lao động không có giao kết hợp đồng lao động với số tiền 12.984.000.000 đồng. Các địa phương đã chỉ trả kinh phí hỗ trợ cho 7.795 lao động với số tiền 11.692.500.000 đồng.

Đối với việc mở rộng đối tượng lao động không có giao kết hợp đồng lao động, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Lao động-Thương binh và Xã hội phối hợp với UBND các huyện, thị xã, thành phố tiến hành rà soát các đối tượng chưa có trong Quyết định số 441/QĐ-UBND (trong đó có đối tượng làm việc tại các cơ sở: bida; intenet; xông hơi massage...). Tổng số đối tượng đã rà soát là hơn 18.000 người, với mức hỗ trợ 1.500.000 đồng/người thì kinh phí để hỗ trợ là khoảng hơn 27 tỷ đồng. Để đảm bảo có khoảng kinh phí hỗ trợ từ nguồn ngân sách của tỉnh, UBND tỉnh giao Sở Lao động-Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính và các địa phương liên quan tiếp tục rà soát các đối tượng để không còn đối tượng nào bị bỏ sót và đề xuất nguồn kinh phí để hỗ trợ báo cáo UBND tỉnh xem xét, xử lý.

Kiến nghị: Ủy ban nhân dân tỉnh trình HĐND tỉnh xem xét điều chỉnh Nghị quyết số 131/2020/NQ-HĐND của HĐND tỉnh ngày 10-12-2020 về việc “quy định mức hưởng phụ cấp hàng tháng của thôn đội trưởng và mức trợ cấp ngày công lao động đối với dân quân khi làm nhiệm vụ trên địa bàn tỉnh Gia Lai”, không nên quy định bằng số tiền cụ thể mà nên quy định mức hưởng bằng hệ số so với mức lương cơ sở. Đồng thời nên tăng mức hưởng của Thôn đội trưởng bằng với mức hưởng của người thực hiện công việc trực tiếp ở thôn như: Công an viên, chi hội trưởng các chi hội đoàn thể.

Trả lời: Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định số 72/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Dân quân tự vệ về tổ chức xây dựng lực lượng và chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ và căn cứ điều kiện kinh tế của tỉnh; trong quá trình xây dựng trình HĐND tỉnh ban hành nghị quyết 131/2020/NQ-HĐND, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh đã lấy ý kiến của các sở ban ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố và thống nhất đề xuất mức phụ cấp hàng tháng của Thôn đội trưởng bằng mức phụ cấp mà Chính phủ quy định với số tiền cụ thể 745.000 đồng.

Tiếp thu ý kiến nêu trên của cử tri, trong thời gian tới, UBND tỉnh sẽ giao Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh chủ trì, phối hợp với các đơn vị, địa phương tiến hành rà soát các quy định liên quan, điều kiện và tình hình ngân sách của tỉnh để tham mưu UBND tỉnh trình HĐND tỉnh xem xét sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 131/2020/NQ-HĐND phù hợp với tình hình thực tế.

Kiến nghị: Việc quản lý lao động là người nước ngoài khi đến làm việc tại Gia Lai, nhất là ở các công trình, dự án trọng điểm như công trình điện gió... Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo lực lượng chức năng quản lý chặt chẽ hơn; kịp thời nắm thông tin, lịch trình đi, đến của các công dân, để tránh làm lây lan dịch Covid-19 và đảm bảo về an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh.

Trả lời: Trên địa bàn tỉnh Gia Lai hiện nay có 16/17 dự án Nhà máy Điện gió đang trong quá trình triển khai xây dựng; 1 dự án Nhà máy điện gió chưa triển khai thực hiện (Dự án Nhà máy điện gió Ia Boòng, Chư Prông). Tổng số người lao động nước ngoài được cấp Giấy phép lao động và không thuộc diện cấp giấy phép lao động đang làm việc trên địa bàn tỉnh là: 145 lao động tại 36 doanh nghiệp, đơn vị, nhà thầu (trong đó tại các dự án điện gió là 107 lao động).

Trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, UBND tỉnh đã chỉ đạo ngành Y tế đã chủ động hướng dẫn các doanh nghiệp sử dụng lao động người nước ngoài áp dụng đầy đủ các biện pháp phòng-chống dịch tại nơi làm việc và sinh sống. Để tiếp tục quản lý tốt đối với lao động người nước ngoài làm việc trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ban, ngành và UBND các huyện, thị xã, thành phố thực hiện một số giải pháp sau:

Công an tỉnh làm tốt công tác nắm tình hình di biến động dân cư nhất là đối với người lao động nước ngoài trên địa bàn.

Các sở, ngành, địa phương liên quan và các cơ quan tuyền thông đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật về lao động người nước ngoài làm việc tại Việt Nam đối với các doanh nghiệp, đơn vị, nhà thầu có nhu cầu sử dụng lao động người nước ngoài. Tăng cường công tác phối hợp, trao đổi thông tin giữa các cơ quan liên quan để hướng dẫn cho các doanh nghiệp, đơn vị, nhà thầu mới đầu tư biết và thực hiện các quy định về sử dụng lao động người nước ngoài theo đúng quy định của pháp luật lao động hiện hành. Đồng thời, các Sở, ngành, địa phương tăng cường thực hiện nghiêm Quyết định số 57/2016/QĐ-UBND ngày 30-12-2016 của UBND tỉnh về ban hành quy chế phối hợp trong công tác quản lý cư trú và hoạt động của nước ngoài tại tỉnh Gia Lai.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các đơn vị, doanh nghiệp, nhà thầu có sử dụng lao động người nước ngoài, đặc biệt đối với các dự án điện gió trên địa bàn tỉnh; kịp thời chấn chỉnh và xử lý vi phạm về tuyển dụng, quản lý lao động người nước ngoài trên địa bàn tỉnh và công tác phòng-chống dịch bệnh Covid-19.

Các địa phương chủ động phối hợp với các sở, ban ngành trong việc thống kê, theo dõi người nước ngoài trong phạm vi địa phương quản lý, cũng như thực hiện tốt công tác quản lý cư trú và hoạt động của người nước ngoài tại địa phương.

Kiến nghị:Cử tri đề nghị xem xét tăng mức phụ cấp cho lực lượng Tổ bảo vệ dân phố, vì hiện nay nhiệm vụ chuyên môn nhiều, nhất là trong công tác phòng-chống dịch, nhưng mức phụ cấp thấp không đảm bảo ổn định cuộc sống.

Trả lời: Quy định số lượng chức danh và mức phụ cấp hàng tháng cho Bảo vệ dân phố trên địa bàn tỉnh Gia Lai được áp dụng theo Quyết định số 119/2007/QĐ-UBND ngày 31-12-2007 của UBND tỉnh, theo đó quy định: Trưởng ban Bảo vệ dân phố bằng 75% mức lương tối thiểu; Phó trưởng ban Bảo vệ dân phố bằng 65% mức lương tối thiểu; Ủy viên ban Bảo vệ dân phố (Tổ trưởng Tổ bảo vệ dân phố) bằng 60% mức lương tối thiểu; Tổ phó Tổ bảo vệ dân phố bằng 55% mức lương tối thiểu; Tổ viên Tổ Bảo vệ dân phố bằng 50% mức lương tối thiểu.

Để giải quyết kiến nghị của cử tri, UBND tỉnh giao Công an tỉnh tỉnh chủ trì, phối hợp với các đơn vị, địa phương tiến hành rà soát lại các quy định liên quan, điều kiện và tình hình ngân sách của tỉnh để tham mưu UBND tỉnh xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật và phù hợp với tình hình thực tế.

Kiến nghị: Những năm qua được sự quan tâm của nhà nước hỗ trợ cho các hộ nghèo làm ăn phát triển kinh tế góp phần thoát nghèo bền vững. Tuy nhiên mức kinh phí hỗ trợ quá thấp so với giá cả thị trường hiện nay. Đề nghị các cấp xem xét nâng mức hỗ trợ cho các hộ nghèo đảm bảo nguồn vốn mua giống vật nuôi hoặc xây nhà ở góp phần thoát nghèo bền vững.

Trả lời: Thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững năm giai đoạn 2016-2020, UBND tỉnh đã trình HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 94/2018/NQ-HĐND ngày 6-12-2018 quy định một số nội dung về quản lý, sử dụng kinh phí sự nghiệp Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn tỉnh, trong đó quy định mức hỗ trợ phát triển sản xuất cho hộ nghèo tham gia các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo từ nguồn kinh phí sự nghiệp thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 là 20 triệu đồng/hộ/năm; mức hỗ trợ này có thể giúp hộ nghèo mua con giống, cây trồng, phân bón... phục vụ phát triển sản xuất, kinh doanh, phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh; ngoài ra, bản thân hộ nghèo có nhu cầu sẽ được vay vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách Xã hội tỉnh với mức vay tối đa 100 triệu đồng.

Trong giai đoạn 2017-2021, theo Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 28-4-2017 của Thủ tướng Chính phủ, TP. Pleiku không có xã, thôn đặc biệt khó khăn; đối với TP. Pleiku là địa phương có điều kiện thuận lợi về kinh tế, theo đó tỉnh bố trí nguồn vốn triển khai các Tiểu dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Ủy ban nhân dân TP. Pleiku sử dụng nguồn lực từ ngân sách của địa phương, Quỹ Vì người nghèo của địa phương và nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân để hỗ trợ cho người nghèo.

Kết quả, từ năm 2017 đến nay đã hỗ trợ cho 173 hộ nghèo, cận nghèo xây dựng mới và sửa chữa nhà ở với kinh phí trên 6.430 triệu đồng; hỗ trợ vốn chăn nuôi cho 277 hộ nghèo với kinh phí 1.870 triệu đồng; hỗ trợ làm nhà vệ sinh cho 207 hộ với kinh phí 870 triệu đồng; hỗ trợ vay vốn kinh phí 25.662 triệu đồng. Nhìn chung, mức hỗ trợ cho người nghèo phát triển sản xuất ở TP. Pleiku thấp hơn mức hỗ trợ 20 triệu đồng/hộ được quy định tại Nghị quyết số 94/2018/NQ-HĐND.

Để đảm bảo việc hỗ trợ cho các hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn bằng hoặc hơn mức quy định tại Nghị quyết số 94/2018/NQ-HĐND ngày 6-12-2018 của HĐND tỉnh, UBND tỉnh chỉ đạo UBND TP. Pleiku rà soát các nguồn lực của địa phương để cân đối, nâng mức hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo có điều kiện vươn lên thoát nghèo bền vững. Đồng thời, để UBND TP. Pleiku tổ chức triển khai thực hiện đúng thẩm quyền đã được giao, UBND tỉnh đề nghị HĐND tỉnh-kỳ họp thứ tư thống nhất việc Thường trực HĐND tỉnh chuyển nội dung kiến nghị này về HĐND TP. Pleiku kiểm tra, theo dõi, giám sát việc thực hiện của UBND TP. Pleiku.

 

GLO
 

Có thể bạn quan tâm

Lãnh đạo Báo Gia Lai thăm, chúc mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam

Lãnh đạo Báo Gia Lai thăm, chúc mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam

(GLO)- Nhân kỷ niệm 42 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982-20/11/2024), sáng 20-11, đồng chí Lương Văn Danh- Phó Tổng Biên tập Báo Gia Lai đã đến thăm, chúc mừng tập thể lãnh đạo, cán bộ, giảng viên, giáo viên, nhân viên Sở Giáo dục và Đào tạo, Trường Chính trị tỉnh.

Thay mặt Tỉnh ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Thị Thanh Lịch (thứ 2 từ phải sang) trao tặng phần quà cho buôn Chư Krih, xã Chư Drăng, huyện Krông Pa. Ảnh: Yến Thụy

Bình xét danh hiệu văn hóa: Công khai, minh bạch

(GLO)- Trên cơ sở Quyết định số 60/2024/QĐ-UBND ngày 11-11 của UBND tỉnh Gia Lai quy định tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Thôn, tổ dân phố văn hóa”, “Xã, phường, thị trấn tiêu biểu”, các địa phương đã triển khai bình xét các danh hiệu nghiêm túc, đảm bảo công khai, minh bạch.

FAO đánh giá người lớn và trẻ em khu vực bắc Gaza đang chết đói

FAO đánh giá người lớn và trẻ em khu vực bắc Gaza đang chết đói

(GLO)- Giám đốc Văn phòng khẩn cấp và phục hồi của Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc (FAO) Rein Paulsen trong phiên họp của Hội đồng Bảo an diễn ra ngày 12/11, cho biết “Ủy ban Đánh giá Nạn đói đã phát hiện ra khả năng cao là nạn đói đang xảy ra hoặc sắp xảy ra ở các khu vực phía bắc dải Gaza”.

Gia Lai: Quy định xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Thôn, tổ dân phố văn hóa”, “Xã, phường, thị trấn tiêu biểu”

Gia Lai: Quy định xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Thôn, tổ dân phố văn hóa”, “Xã, phường, thị trấn tiêu biểu”

(GLO)- Ủy ban Nhân dân tỉnh Gia Lai ban hành Quyết định số 60/2024/QĐ-UBND ngày 11-11-2024 quy định chi tiết tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Thôn, tổ dân phố văn hóa”, “Xã, phường, thị trấn tiêu biểu” trên địa bàn tỉnh Gia Lai.

Mắt người già thật là... phức tạp

Mắt người già thật là... phức tạp

(GLO)- Ngày còn trẻ, tôi có tính hay bị “dị ứng” với những người mang kính. Nhưng đúng là “ghét của nào trời trao của nấy”, tuổi chưa đầy 50, tôi đã phải gắn bó với cặp kính. Mới đầu rất khó chịu, không có kính thì không thấy đường đọc, mà mang kính vào thì vướng víu đủ điều.