"Người con nuôi" Việt Nam của Fidel Castro

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Ông là Nguyễn Đình Bin - nguyên thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao, chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài.

“Tôi thân thiết và có nhiều kỷ niệm đối với Fidel đến nỗi mà nhiều tờ báo ở Việt Nam gọi tôi là “con nuôi của Fidel” - đó là đặc ân và diễm phúc của tôi” - Ông Nguyễn Đình Bin xúc động nói.

“Ông hay gọi tên Cuba của tôi là Raphael và thường gọi tôi là “tú” (mày) bằng tiếng Tây Ban Nha theo cách xưng hô thân mật như trong gia đình” - nhà ngoại giao kỳ cựu kể về vị lãnh tụ kiệt xuất của cách mạng Cuba, những kỷ niệm cả công việc lẫn cuộc sống ùa về...

 
Lãnh tụ Fidel Castro và phiên dịch Nguyễn Đình Bin.
Lãnh tụ Fidel Castro và phiên dịch Nguyễn Đình Bin.

Chuyên phiên dịch cho Fidel

Trong suốt chặng đường gần 40 năm, từ khi còn là sinh viên năm thứ nhất khoa văn Trường đại học La Habana (Cuba), đến khi làm việc trong ngành ngoại giao, tôi đã nhiều lần được gặp gỡ lãnh tụ Cuba Fidel Castro nhờ được phiên dịch cho ông trong các cuộc tiếp xúc, gặp gỡ, hội đàm với đại sứ nước ta tại Cuba cũng như với lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta trong nhiều sự kiện lịch sử.

Tôi còn nhớ lần đầu tiên được phiên dịch cho Fidel là khi ông đến dự chiêu đãi Quốc khánh 2-9-1965, khi đó tôi còn là sinh viên năm nhất.

Năm 1966, đại sứ Ngô Mậu trình quốc thư làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Cuba, bác ấy kéo sinh viên “Bin” về làm phiên dịch.

Một năm sau đó, do công việc sứ quán quá nhiều, tôi được vào biên chế của Bộ Ngoại giao với chức danh là phiên dịch viên. Kể từ đó, tôi có nhiều cơ hội tiếp xúc với Fidel.

Đối với tôi, Fidel còn là người cực kỳ nhân hậu và giản dị, một lãnh tụ rất uyên bác và có lý tưởng.

Xuất thân trong một gia đình đại điền chủ, tốt nghiệp tiến sĩ luật, Fidel đã từ bỏ cuộc sống vương giả để cống hiến trọn đời cho độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân Cuba và cho lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng con người, bình đẳng, bác ái, chống lại mọi áp bức, bất công trên toàn thế giới.

Ông đã lập nên một kỳ tích có một không hai: dẫn dắt nhân dân Cuba và trực tiếp chiến đấu thắng lợi cùng với nhân dân mình, đem lại và bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do, đồng thời xây dựng cuộc sống mới tốt đẹp trên tổ quốc Cuba.

Fidel không chỉ là vị lãnh tụ, tổng tư lệnh, người anh hùng dân tộc vĩ đại của nhân dân Cuba mà còn là nhà cách mạng, người chiến sĩ quốc tế kiệt xuất, uyên bác, đầy nhiệt huyết, hào sảng, nghĩa hiệp.

Những ký ức lịch sử

 

Ông Nguyễn Đình Bin (thứ ba từ phải sang) trong một lần phiên dịch cho lãnh tụ Fidel Castro nhân chuyến thăm Việt Nam.
Ông Nguyễn Đình Bin (thứ ba từ phải sang) trong một lần phiên dịch cho lãnh tụ Fidel Castro nhân chuyến thăm Việt Nam.

Năm 1973, Fidel là vị nguyên thủ nước ngoài đầu tiên và duy nhất thăm vùng giải phóng miền Nam khi chiến tranh chưa kết thúc. Lúc đó tôi là người phiên dịch cho Fidel và lãnh đạo ta. Ngày 12-9-1973, Thủ tướng Fidel Castro đến Việt Nam.

Ra đón đoàn tại sân bay Gia Lâm (Hà Nội) có rất nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta: Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn, Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp.

Hai bên đường, hàng vạn đồng bào tay cầm cờ hoa đón chào Fidel, không ngừng hô vang: “Viva Cuba! Viva Fidel!”.

Trong chuyến thăm năm đó, Fidel nhất quyết yêu cầu được đi thăm “thủ phủ” của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Cam Lộ, Quảng Trị để được trực tiếp chứng kiến chiến trường, thăm hỏi và động viên đồng bào, chiến sĩ miền Nam.

Lúc đầu, lãnh đạo nước ta chần chừ vì lo ngại an ninh cho Fidel khi chiến tranh vẫn còn diễn ra ác liệt. Tuy nhiên, trước sự kiên quyết của Fidel, lãnh đạo ta cuối cùng cũng đồng ý.

Trên đường về Vĩnh Linh, có bom Mỹ thả, dân ta có mấy chị phụ nữ bị thương. Fidel yêu cầu đoàn xe dừng lại ngay và đến thăm hỏi những người bị thương. Điều đó cho thấy ông ấy là một người cực kỳ nhân hậu.

Có một điều Fidel vô cùng tiếc nuối là chưa được gặp Bác Hồ. Khi Bộ Chính trị công bố ngày mất của Bác là 3-9-1969, Fidel không thể sắp xếp đến viếng vì bận việc nước. Ông cử một đoàn đại biểu cấp cao Cuba đến Hà Nội, đồng thời đến sứ quán Việt Nam tại Cuba để viếng, vô cùng xúc động.

Trong tiệc chiêu đãi trong khuôn khổ chuyến thăm Việt Nam năm 1973, Fidel nói rất tiếc là ông không gặp Bác. Ông ước gì đến Hà Nội trước ngày 2-9-1969 để được gặp Bác. Tuy hai vĩ nhân không có cơ hội gặp nhau, nhưng họ có gửi nhiều tặng phẩm cho nhau.

Cũng trong chuyến thăm lần đầu tiên này của Fidel đến Việt Nam, Cuba đã tặng Việt Nam 5 công trình kinh tế - xã hội với tổng trị giá khoảng 80 triệu USD.

Bao gồm: khách sạn Thắng Lợi (tại Hồ Tây, Hà Nội), Bệnh viện Việt Nam - Cuba (tại Đồng Hới, Quảng Bình), đường Xuân Mai, trại bò giống Ba Vì, Xí nghiệp gà Lương Mỹ; tặng bò giống, gà giống và chi hơn 6 triệu USD để mua thiết bị hiện đại, đồng thời cử chuyên gia về cầu đường sang Việt Nam tham gia cùng bộ đội Trường Sơn mở rộng đường mòn Hồ Chí Minh, và giúp đào tạo trên 1.000 sinh viên Việt Nam ở trình độ đại học và cao học...

Ngày 27-3-1974, Bác Tô - Thủ tướng Phạm Văn Đồng - dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam sang thăm Cuba.

Tôi còn nhớ lúc đó, đích thân Fidel đến khu nhà ở dành cho các nguyên thủ nước ngoài ở Cuba và tặng bác Tô một đồng hồ điện tử. Còn gặp tôi thì lúc nào ông cũng ôm vai bá cổ thân thiết, thậm chí mời tôi đến nhà ăn cơm.

Trong cuộc mittinh lịch sử ngày 2-1-1966 chào mừng lần thứ 7 Cách mạng Cuba thành công tại quảng trường Cách mạng José Marti, trước hơn 30 vạn quần chúng và các đoàn đại biểu các nước Á, Phi, Mỹ Latin tham dự Hội nghị đoàn kết ba châu lần thứ nhất tổ chức ở La Habana, tôi có vinh dự làm phiên dịch cho đoàn đại biểu Việt Nam do ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Trần Danh Tuyên dẫn đầu.

Tôi cũng chính là người phiên dịch câu nói lịch sử của lãnh tụ Fidel Castro về mối quan hệ với Việt Nam tại cuộc mittinh năm đó: “Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu mình”.

Theo tuoitre

Có thể bạn quan tâm

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn (view) đắt giá nhất của người Rục ở bản Ka Ai, xã Dân Hóa, bản Mò O Ồ Ồ, xã Thượng Hóa (Quảng Bình, nay là tỉnh Quảng Trị), đó là ngôi nhà có mặt tiền bao quát đồng lúa.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

(GLO)- Cuộc trò chuyện với hai nhân chứng sống - ông Hoàng Văn Tuyển và bà Huỳnh Thị Kim Xuyên đã đưa chúng ta trở lại những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, nơi tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến đã viết nên những trang đời đáng nhớ.

null