Những đoản khúc Huế

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Hôm ấy, trên xe khi đi qua đoạn đường gần Khách sạn Morin và Trung tâm Nghệ thuật Điềm Phùng Thị ở Huế, nhìn hàng cây rất đẹp, tôi nói với người lái xe: “Nếu thấy cây long não, em chỉ cho anh nhé”. 

Thời buổi ấy những người con gái Huế chưa hề dùng đến phương tiện có máy nổ và có tốc độ chóng mặt như bây giờ. Trừ những người ở quá xa phải đi xe đạp, còn lại đa số cứ đến trường bằng những bước đi thong thả hoàng cung (…)

Người con gái đi qua những hàng cây long não bây giờ đã ở một nơi xa, đã có một đời sống khác. Tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Kỷ niệm nào cũng đáng nhớ nhưng cứ phải quên. Người con gái ấy là Diễm của những ngày xưa”.

Rốt cuộc tôi cũng không được nhìn thấy cây long não trong chuyến đi Huế ấy. Trên những con đường xe qua hôm ấy không có cây long não, hay người lái xe cũng không biết cây long não để chỉ?

*

Cùng với đất nước, Huế đã thay đổi nhiều, rất nhiều.

Qua cầu là đất Vĩ Dạ. Nhưng không còn thôn Vĩ. Vĩ Dạ nay đã đô thị hóa, phố xá, nhà cửa san sát. Nếu giờ Nguyễn Bính có đến Huế, ông cũng có thể viết: “Chiều nay có một người du khách/ Ở Vĩ thôn mà nhớ Vĩ thôn” (câu thơ gốc của Nguyễn Bính trong bài “Xóm Ngự Viên”: “Chiều nay có một người du khách/ Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên”).

Vào nhà hàng Vĩ Dạ Xưa, nhân lúc mưa thưa, tôi cố men các vũng nước lần ra bờ nhìn sông Hương bị hẹp lại chỗ này vì giữa dòng là Cồn Hến. Nhưng quả thật, nếu không được ai nói cho trước thì không biết đó là cái bãi nổi tiếng giữa sông vì nhìn cứ tưởng đó là bờ bên kia bởi cây cối, nhà cửa ken dày không thấy đầu và cuối bãi. Bãi có tên như thế vì xưa ở đó có rất nhiều hến, thứ đặc sản làm nên món cơm hến Huế đầy phong vị. Giờ không biết hến để làm món cơm ấy, người ta gom về từ những nơi nào?

Cảnh sắc thay đổi nhiều, nhịp sống Huế cũng khác hẳn xưa. Trịnh Công Sơn mất đã ngót một phần tư thế kỷ. Nếu còn sống, ông sẽ không tìm đâu ra những bước chân “thong thả hoàng cung”. Huế cũng đông đúc và tắc đường vào giờ cao điểm. Tôi đến Huế và thấy ngạc nhiên trước sự ồn ã, sôi động của Phố Tây ở Huế.

*

Thời tiết ở Huế cũng thay đổi. Mới có tháng Sáu dương lịch mà gặp phải ảnh hưởng trận bão sớm, Huế mưa dài và lớn quá. Đến mức nước tràn mặt sân khấu làm trên sông Hương khiến Chung kết cuộc thi Hoa hậu Việt Nam phải hoãn, lùi ngày. Anh em ở Huế bảo ngày trước, phải đôi ba tháng nữa, Huế mới mưa như thế.

Mưa Huế nổi tiếng. Mưa Huế đi vào thi ca, nhạc, họa... Cũng gần trăm năm trước, năm 1941, Nguyễn Bính viết trong bài “Giời mưa ở Huế”: “Giời mưa ở Huế sao buồn thế!/ Cứ kéo dài ra đến mấy ngày/ Thềm cũ nôn nao đàn kiến đói/ Giời mờ ngao ngán một loài mây”. Ba mươi hai năm sau đó, năm 1973, nhà thơ Tố Hữu viết trong “Nước non ngàn dặm”: “Nỗi niềm chi rứa, Huế ơi!/ Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên”. Sau câu thơ này, hơi khó để nói thêm gì nữa về mưa Huế trong thi ca vì có lẽ đến như thế đã là hay nhất rồi. Có chăng thì nhắc thêm một chút về nhà thơ bình dân Nguyễn Văn Phương (Phương Xích lô), người đã nhìn ra mưa Huế có đủ bảy sắc như cầu vồng trong bài thơ “Bảy màu mưa Huế”. Bài thơ có bốn khổ nhưng chỉ xin lược ra đây những câu nhà thơ chỉ màu của mưa Huế: “Mưa đỏ bên đường hay ánh phượng soi?”, “Mưa đen trên trời, mưa tím dưới sông”, “Ai đã tô lên những mảng mây hồng?”, “Đắm hồn mình trong những giọt mưa xanh”, “Những đóa mưa vàng lấp lánh trên hoa”, “Riêng anh lang thang mưa trắng nhạt nhòa”.

Đó là trong thơ, còn trong nhạc thì bài hát Mưa trên phố Huế, nhạc Minh Kỳ, lời thơ Tôn Nữ Thụy Khương được coi là hay nhất trong những bài viết về hoặc có nhắc tới mưa Huế. Đối với nhiều người, đó là bài hát hay nhất về xứ Huế.

“Chiều mưa trên Kinh đô Huế/ Tiếng mưa còn vương kỷ niệm/ Ngày quen nhau dưới chân Thiên Mụ em còn nhớ không?”; “Chiều mưa phố buồn/ Chiều mưa phố xưa u buồn/ có ai mong đợi/ Một người biền biệt nơi mô/ Để nhớ với thương một người”; “Chiều nay mưa trên phố Huế/ Biết ai đã quên ai rồi/ Hạt mưa rơi vẫn rơi, rơi đều cho lòng u hoài”…

Làm nên ca khúc như tiếng gọi hồn của Huế đó là hai người có dòng máu Hoàng tộc. Nhạc sĩ Minh Kỳ có tên khai sinh là Nguyễn Phúc Vĩnh Mỹ, sinh năm 1930. Ông là cháu năm đời của vua Minh Mạng, có vai vế ngang với Bảo Đại. Ngoài “Mưa trên phố Huế”, Minh Kỳ có nhiều bài nổi tiếng khác như “Thương về xứ Huế”, “Người em Vĩ Dạ”, “Xuân đã về”, “Đà Lạt hoàng hôn”, “Nhớ Nha Trang” (Minh Kỳ sinh ở Nha Trang)… Ông mất tháng 8 năm 1975, khi mới có 45 tuổi.

Còn Tôn Nữ Thuỵ Khương tên thật là Công Tằng Tôn Nữ Hỷ Khương, sinh năm 1937 tại Vỹ Dạ, Huế, mất năm 2021 tại thành phố Hồ Chí Minh. Là con của nhà thơ nổi tiếng Ưng Bình Thúc Giạ Thị (một Hoàng thân nhà Nguyễn), bà cũng sáng tác nhiều, đã in sáu tập thơ, là hội viên Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh.

*

Tiếp mạch thơ về Huế. Kỳ lạ là đến đầu những năm 40 thế kỷ trước, Hoài Thanh viết trong “Thi nhân Việt Nam”: “Huế đẹp, Huế nên thơ. Ai chẳng nói thế? Ai chẳng thấy thế? Nhưng sao hình ảnh Huế trong thi ca lại tầm thường thế? Có lẽ cảnh Huế quá huyền diệu, quá mơ màng không biết tả thế nào cho thoát sáo. Cũng có lẽ ngắm cảnh Huế, người ta khó tránh được cái buồn vơ vẩn, nó là khí vị riêng của xứ này và lòng người ta không đủ thản nhiên để ghi lấy hình sắc riêng của mỗi vật”.

Có lẽ bởi xưa, về Huế thường chỉ có thơ xướng họa, thù tạc.

Chắc thơ về Huế bắt đầu hay khi trên bước đường phiêu bạt giang hồ, Nguyễn Bính dừng chân tại Huế chừng một năm, 1940 - 1941 và viết một loạt 13 bài thơ về Huế. Phải đến ông, mới có những câu thơ về Huế như: “Cầu cong như chiếc lược ngà/ Sông dài mái tóc cung nga buông hờ”; “Suốt giời không một điểm sao/ Suốt giời mực ở nơi nào loang ra”; “Thâm u một dải hoàng thành/ Đình suông con én không đành bay đi”; “Đêm tàn chẳng có chiêm bao/ Đêm tàn có mấy chòm sao cũng tàn/ Chén sầu đổ ướt tràng giang/ Canh gà bên nớ giằng sang bên này”; “Gió thu cứ mãi trêu ngươi/ Đôi thân áo mỏng tơi bời bay lên/ Dịu dàng đôi ngón tay tiên/ Giữ hờ mép áo làm duyên qua đường”…

Tiếp mạch lục bát hay về đất Thần Kinh, Bùi Giáng có câu được nhiều người nhắc nhớ: “Dạ thưa xứ Huế bây giờ/ Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương”. Sau đó, Nguyễn Duy, vẫn cứ là lục bát: “Tôi về xứ Huế mưa sa/ Em ơi Đồng Khánh đã là ngày xưa/ Tôi về xứ Huế chiều mưa/ Em ơi áo trắng bây giờ ở đâu”; “Chợ chiều Bến Ngự chưa tan/ Ai đi ngược dốc Phú Cam một mình”.

Có một bài thơ, không phải lục bát, rất hay về Huế. “Tạm biệt Huế” của Thu Bồn. “Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ/ Nên chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu/ Những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng/ Mặt trời vàng và mắt em nâu”; “Áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy/ Nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền/ Nón rất Huế mà đời không phải thế/ Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng”; “Nhịp cầu cong và con đường thẳng/ Một đời anh đi mãi chẳng về đâu/ Con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”…

Người ta kể rằng trong một cuộc trò chuyện, trao đổi về thơ, trả lời câu hỏi “Xin chị đánh giá những sáng tác thơ về Huế”, nhà thơ Huế Lâm Thị Mỹ Dạ nói: Chỉ cần nhắc đến một bài thơ của Thu Bồn là đủ.

Cũng giống như nhạc phẩm “Diễm xưa” của Trịnh Công Sơn, đằng sau “Tạm biệt Huế” cũng có bóng một giai nhân. Bà tên là Minh Châu, một nữ nghệ sĩ nhiếp ảnh trẻ được Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế cử đi dẫn Thu Bồn và một số văn nghệ sĩ tham quan Huế một lần vào đầu những năm 80 xa xưa ấy. Buổi chiều dẫn lên đền thì tối khuya, khoảng hơn 11 giờ đêm Thu Bồn đến nhà gọi Minh Châu ra cửa để trao bản viết tay bài thơ này.

*

Huế thay đổi nhiều nhưng có lẽ có một thứ không thay đổi: Con người Huế. Thiện lành và tình nghĩa.

Chuyến đến Huế hồi tháng sáu vừa qua, tôi tìm và gặp mặt lại bốn đứa em ở Huế sau 35 năm đứt liên lạc. Khi tôi học ở thành phố Krasnodar ở miền nam nước Nga thì bốn em gái Huế này - Hường, Sao, Trinh, Hằng làm việc ở một liên hợp dệt ở đấy theo chương trình hợp tác lao động.

Sông Hương, nhìn từ cổng Chùa Thiên Mụ
Sông Hương, nhìn từ cổng Chùa Thiên Mụ

Thời điểm đó có tới khoảng ba nghìn cô gái Việt Nam làm việc trong hai tổ hợp dệt rất lớn tại đây. Ba anh em chung phòng gồm anh Lê Khắc Hùng, Bùi Quốc Trượng và tôi quen với một số người trong họ và thân với bốn em gái trên. Họ cùng ở một phòng trong ký túc xá của nhà máy. Các dịp nghỉ lễ, Tết, các em thường nấu nướng khá thịnh soạn mời anh em tôi vào chung vui. Tôi nhớ một cái Tết, các em không hề đụng đũa, ngồi nhìn chúng tôi ăn rồi ôm nhau khóc. Vì nhớ nhà!

Tôi về nước năm 1987, ba năm sau, 1990, bốn đứa cũng trở về. Tôi với anh Hùng có lên Nội Bài đón các em. Những năm sau đó đất nước rất khó khăn nên chúng tôi không giữ được liên lạc. Mãi gần đây, một người bạn Huế của tôi tình cờ biết một trong bốn đứa có quen tôi, chúng tôi mới có số điện thoại của nhau. Và dịp tôi đến Huế làm việc, chúng tôi gặp mặt.

Điều tuyệt vời là sau 35 năm bặt tin, hôm gặp lại, chúng tôi thấy thoải mái, thân thiết như thời còn son trẻ, chuyện nở không dứt như ngô rang. Mặc dù số phận mỗi đứa khác nhau, đứa mát mặt, đứa vất vả nhưng vẫn là những tình cảm vô tư như thuở mười chín, đôi mươi.

Lê Xuân Sơn

tienphong.vn Xem link nguồn

Có thể bạn quan tâm

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Trong hai năm 2024-2025, thủ phủ Tây Nguyên trúng đậm cà phê. Chỉ tính riêng huyện Đắk Mil (tỉnh Đắk Nông cũ), các lão nông đã sắm 1.000 ô tô trong năm 2024. Xã Bờ Y (huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum cũ, nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi giáp Lào và Campuchia) cũng chung niềm vui ấy...

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn (view) đắt giá nhất của người Rục ở bản Ka Ai, xã Dân Hóa, bản Mò O Ồ Ồ, xã Thượng Hóa (Quảng Bình, nay là tỉnh Quảng Trị), đó là ngôi nhà có mặt tiền bao quát đồng lúa.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

Gìn giữ kỷ vật tri ân

Gìn giữ kỷ vật tri ân

(GLO)- Bảo tàng tỉnh Gia Lai đang lưu giữ hơn 4.000 tài liệu, hình ảnh, hiện vật, kỷ vật có giá trị về 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; trong đó, có gần 300 hiện vật, tư liệu, hình ảnh về các mẹ Việt Nam anh hùng, liệt sĩ ở vùng đất Bình Định trước đây.

Vào rừng... chờ ươi bay

Vào rừng... chờ ươi bay

Sau 4 năm, khi những cánh rừng già miền núi TP.Đà Nẵng (Quảng Nam cũ) chuyển mình vào mùa ươi chín, hàng ngàn người dân lại có một cuộc 'di cư' tạm thời vào rừng sâu chờ 'lộc trời' rơi xuống để nhặt.

null