Đừng để mộc bản Phật giáo "kêu cứu"

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Hơn 800 mộc bản Phật giáo Huế (có niên đại từ cuối thế kỷ XVII) được tìm thấy, phát hiện ở nhiều ngôi chùa, tư gia vừa được đưa về Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế. Không chỉ phong phú về chủng loại và niên đại, những mộc bản quý giá này còn cung cấp nhiều thông tin giá trị. Tuy nhiên, tư liệu quý này đang mai một, thất thoát... bởi nhiều lý do.

 

 Hơn 800 tấm mộc bản được nhóm nghiên cứu đưa về Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế. Ảnh: PĐ
Hơn 800 tấm mộc bản được nhóm nghiên cứu đưa về Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế. Ảnh: PĐ



Chứa đựng những thông tin tư liệu đồ sộ

Ở Việt Nam, mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu thế giới đầu tiên được UNESCO công nhận năm 2009. Đó là những văn bản chữ Hán - Nôm được khắc ngược trên gỗ để in sách tại Việt Nam vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.

Tất cả nội dung bản thảo được khắc trên mộc bản triều Nguyễn đều được Hoàng đế trực tiếp ngự lãm, phê duyệt bằng bút tích trước khi giao cho những người thợ tài hoa nhất trong cung khắc lên gỗ quý. Đây là những tài liệu gốc, độc bản, có giá trị, phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử và văn hóa Việt Nam thời cận đại.

Tài liệu mộc bản triều Nguyễn được hình thành chủ yếu trong quá trình hoạt động của Quốc sử quán triều Nguyễn tại Huế. Đây là khối tài liệu đặc biệt quý hiếm, do giá trị về mặt nội dung, đặc tính về phương pháp chế tác và những quy định rất nghiêm ngặt của triều đình phong kiến về việc ấn hành và san khắc. Những tài liệu này được coi là quốc bảo, chỉ những người có trách nhiệm và thẩm quyền làm việc tại Quốc sử quán mới được tiếp xúc và làm việc với chúng.

Nói về mộc bản Phật giáo Huế, thì chùa Từ Đàm (TP.Huế) là nơi có số lượng mộc bản lớn nhất trong số 13 địa điểm mà nhóm nghiên cứu khảo sát. Không chỉ phong phú về chủng loại và niên đại, chúng còn cung cấp nhiều thông tin giá trị về những nơi tàng bản trước đó.

Bộ ván khắc Kim Cang Kinh được xác định có niên đại xưa nhất tại xứ Đàng Trong, vô cùng quý giá được tìm thấy ở thời điểm hiện tại. Ván khắc được khắc năm Chính Hòa thứ 19 (1698), tức dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Hay như bộ ván khắc Tam Kiếp Tam Thiên Tôn Phật Danh Kinh được khắc vào năm Cảnh Hưng thứ 33 (1772). Trải qua hàng trăm năm, nhưng những hoa văn, chữ nổi trên ván gỗ vẫn còn rất sắc nét. Không chỉ có văn tự, người xưa rất tài hoa khi chạm khắc lên những ván gỗ nhiều hình ảnh, họa tiết tinh xảo.

Nguy cơ mai một “quốc bảo”

Trao đổi với phóng viên Lao Động, Đại đức Thích Không Nhiên - Phó Chủ biên kiêm Thư ký ấn phẩm Liễu Quán thuộc Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán Huế - cho biết: Mộc bản Phật giáo Huế là một di sản tư liệu có giá trị không chỉ đối với Phật giáo mà còn là phần không thể tách rời trong dòng chảy văn hóa dân tộc, liên quan đến văn hóa học, sử học, ngôn ngữ học của xứ Đàng Trong, của Huế qua các thời kỳ lịch sử.

“Qua thời gian, nhiều tấm mộc bản bị hư hỏng. Không riêng gì Phật giáo mà các tổ chức xã hội, cơ quan hữu quan cần có biện pháp hỗ trợ đối với việc lưu trữ, gìn giữ và phát huy giá trị di sản quý giá này. Đây không chỉ là Pháp bảo của riêng Phật giáo mà còn là quốc bảo”, thầy Thích Không Nhiên nói.

Sau khi đưa về Học viện Phật giáo Việt Nam, hơn 800 mộc bản này được làm vệ sinh theo cách dùng bàn chải để đánh và nước phun lên trước khi tiến hành các công đoạn phân loại, biên mục, số hóa và in sao. Tất cả chỉ mới dừng lại ở những thao tác thủ công thô sơ nhất.

Cũng như mộc bản triều Nguyễn đang được lưu trữ ở Đà Lạt, mộc bản Phật giáo Huế đang dần xuống cấp bởi sự lão hóa tự thân, khí hậu khắc nghiệt… dẫn đến sự thất thoát đáng báo động.

Ông Nguyễn Xuân Hùng - Giám đốc Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV (Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước) cho hay, các chuyên gia trong ngành thống nhất cơ bản điều kiện tốt nhất khi nhiệt độ không trên 21 và không thấp dưới 18 độ C, độ ẩm ở mức 60% ±2%, ánh sáng không quá 50 lux, cùng với đó sử dụng máy lọc không khí để lọc các chất ô nhiễm. “Tuy nhiên, với mộc bản Phật giáo Huế thì hiện chưa có điều kiện, vì thế trước mắt cần lưu giữ trong không gian thông thoáng, khí hậu lưu thông, đảm bảo tính khô ráo và đặc biệt tránh ánh sáng trực tiếp chiếu vào. Chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ Học viện Phật giáo Việt Nam và các chùa ở Huế các phương pháp vệ sinh hiện đại, cũng như cách bảo quản. Dài hơi hơn sẽ nghiên cứu xử lý các mộc bản hư hỏng nặng và số hóa 3D toàn bộ để lưu trữ dữ liệu, phục vụ cho việc trưng bày, in ra giống bản gốc” - ông Hùng chia sẻ.

Thạc sĩ Lê Thọ Quốc - Phân viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia tại Huế, thành viên nhóm nghiên cứu mộc bản Phật giáo Huế nêu ý kiến, đã đến lúc cần có một đề án cụ thể, với những giải pháp bảo tồn một cách khoa học ở một trung tâm lưu trữ chung, nếu không Việt Nam sẽ mất đi chính di sản xứng đáng là “quốc bảo”.


 

Sau nhiều năm khảo sát, nhóm nghiên cứu mộc bản Phật giáo Huế đã tiếp cận được 13 địa điểm, phát hiện gần 3.000 mộc bản tích hợp đa niên đại, chủng loại và cả mộc bản tranh đồ họa cổ vô cùng độc đáo, quý giá. Nhiều nhất ở chùa Từ Đàm với 1.319 mặt khắc, ít nhất là chùa Tra Am chỉ 1 mặt khắc.


http://https://laodong.vn/van-hoa/dung-de-moc-ban-phat-giao-keu-cuu-778111.ldo

Theo PHÚC ĐẠT (Báo Lao Động)

Có thể bạn quan tâm

Dùng mặt nạ kỹ thuật số để phục hồi tranh. (Ảnh: Franetic)

Công nghệ đột phá phục chế tranh cổ chỉ trong vài giờ

(GLO)-Với những bức tranh có niên đại hàng thế kỷ, bị hỏng nặng, việc phục chế gặp nhiều rủi ro và tiêu tốn thời gian. Một bước đột phá về công nghệ vừa được các nhà khoa học thử nghiệm thành công, đã giải quyết được khó khăn này, đó là phương pháp mặt nạ kỹ thuật số.

Đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi

(GLO)- Người Tây Nguyên làm du lịch không chỉ bằng khu nghỉ dưỡng, mà còn bằng lòng hiếu khách và nghệ thuật kể chuyện. Vậy nên, đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi mà hãy đánh thức nó bằng chính giọng nói của rừng, bằng bàn tay của bà con và bằng tình yêu với buôn làng của mình.

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

(GLO)- Lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui là hiện tượng văn hóa xã hội đặc sắc của cộng đồng người Jrai ở Plei Ơi, xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Nghi lễ này tập hợp nhiều biểu tượng văn hóa độc đáo giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới tâm linh của cư dân bản địa.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Nhắc đến đại ngàn Tây Nguyên, có lẽ biểu tượng văn hóa “sừng sững” chính là những mái nhà rông, nhà dài truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong những biến chuyển của thời đại, không gian che chở các hộ gia đình và lan tỏa văn hóa cộng đồng ấy khó tránh khỏi những hư hao, nghiêng ngả.

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

(GLO)- Tuy có sự phát triển của hệ thống thủy lợi song lễ cúng cầu mưa vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống cư dân vùng thung lũng Cheo Reo. Sự đa dạng trong nghi thức cúng của mỗi cộng đồng dân cư đã góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

(GLO)- Người Bahnar quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự hiện diện của thần linh và con người phải tôn trọng, thờ cúng. Vì vậy, họ có nếp sống, sinh hoạt văn hóa với hệ thống lễ hội vô cùng phong phú, gắn với vòng đời người và chu kỳ canh tác nông nghiệp.

null