Độc đáo k'ni

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Giỏi cồng chiêng, thạo ting ning, tơ rưng, tự mày mò chế tác và diễn tấu đàn đá; Nghệ nhân ưu tú A Huynh ở làng Chốt, thị trấn Sa Thầy còn khiến nhiều người không khỏi bất ngờ, thú vị khi làm chủ cây đàn k’ni nhỏ bé mà độc đáo.

Hiền lành, chân chất, A Huynh không hề “giấu nghề” khi có người quan tâm tìm hiểu về cồng chiêng và những nhạc cụ truyền thống mà anh có thể chế tác và diễn xướng.
 

 Nghệ nhân ưu tú A Huynh với cây đàn K'ni. Ảnh: TN
Nghệ nhân ưu tú A Huynh với cây đàn K'ni. Ảnh: TN



 

Không như tơ rưng, ting ning… mà các DTTS ở Tây Nguyên đều có, k’ni được xem là nhạc cụ đặc trưng và độc đáo của dân tộc Gia Rai. K’ni còn được gọi là “bro ‘mom”, nghĩa là “đàn miệng”.

Để giới thiệu về k’ni, A Huynh cầm đàn, ngồi bệt trên nền nhà… Giây lát, không gian nhỏ, ấm cúng đã vang lên những tiếng o ò ò é e… của một điệu dân ca.

K’ni chỉ có một dây, nhưng nét độc đáo rất riêng là việc chơi đàn và khả năng tạo ra âm thanh không chỉ liên quan đến đôi tay, mà còn từ cái miệng.

Thân đàn được cấu tạo đơn giản từ một ống lồ ô “vừa tuổi”, đường kính bằng đốt ngón tay, dài chừng 70cm. Trên đó có sáu lỗ được đục thẳng hàng, cách nhau chừng 1cm và dùng mảnh gỗ trít kín lại, tương ứng với 6 nốt nhạc, song vẫn đảm bảo khi đánh đàn lên, có đủ 7 âm cơ bản, như những âm thanh cơ bản của bộ chiêng.

Phần trên và dưới của thân đàn k’ni được gắn với một đế gỗ nhỏ để mắc dây đàn. Dây đàn duy nhất nằm dọc theo thân đàn. Trước đây, dây đàn k’ni được làm bằng dây mây, sợi cây se lại, nhưng sau này, đơn giản hơn chỉ là sợi kẽm, lõi dây điện tận dụng. Dụng cụ để kéo đàn là một thanh tre mỏng, dài chừng 40cm.

Ở phần cuối thân đàn, nơi tiếp giáp với giá đỡ nhỏ, có một sợi chỉ dài chừng 1m được buộc vào. Đầu bên kia của sợi chỉ lại buộc với miếng sừng trâu hình tròn, lớn hơn đồng xu đã mài mỏng. Miếng sừng trâu này cũng có thể đơn giản chỉ bằng nhựa cũng có tác dụng tương tự.

K’ni được diễn xướng không chỉ trên cơ sở kết hợp nhịp nhàng giữa việc dùng tay bấm nốt trên thân đàn và kéo đàn bằng thanh tre; mà còn kết hợp với hoạt động của khoang miệng.

Khi một tay bấm nốt trên thân đàn, tay kia kéo dây đàn, âm thanh được truyền qua sợi chỉ, vào miệng. Miệng liên tục khép - mở theo nhịp điệu của tay, như “chiếc loa” phát ra âm thanh. Âm thanh to, nhỏ tùy thuộc vào độ mở rộng, hẹp của miệng.

Cấu tạo đơn giản, dễ làm, nhưng k’ni không dễ sử dụng, vì tuy diễn xướng cơ bản như đàn nhị của người Kinh, song đòi hỏi sự tinh tế, khéo léo hơn, vì phải qua hệ thống phát ra âm thanh từ miệng.

K’ni thường được dùng để đệm, làm đậm đà thêm bản sắc cho những bài dân ca, sử thi; song đáng kể vẫn là khả năng độc tấu, thể hiện sự sáng tạo độc đáo của nghệ nhân, làm phong phú thêm nét đẹp nhạc cụ cổ truyền và âm nhạc dân gian.

Vì kén người chơi và chế tác, nên hiện nay, k’ni còn rất ít người biết và sử dụng.

Cùng chung đam mê và yêu thích k’ni với Nghệ nhân ưu tú A Huynh, còn có một nghệ nhân ở làng Jut, xã Ia Der, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai. Sự độc đáo của k’ni được hai nghệ nhân này giới thiệu tại các sự kiện văn hóa tổ chức ở Thủ đô Hà Nội

Thanh Như (baokontum)

Có thể bạn quan tâm

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

(GLO)- Đây là số cuối cùng của chuyên mục “Gương mặt thơ” trên báo Gia Lai Cuối tuần do tôi phụ trách.Chuyên mục đã đi được hơn 2 năm (từ tháng 10-2022), tới nay đã giới thiệu tác phẩm của hơn 100 nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn cả nước.

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

(GLO)- Rời quê vào thôn Đà Bắc (xã Ia Lâu, huyện Chư Prông) lập nghiệp đã hơn 30 năm, nhưng cộng đồng người Mường vẫn luôn duy trì và nỗ lực bảo tồn văn hóa cồng chiêng của dân tộc. Với họ, “giữ lửa” cồng chiêng chính là cách làm thiết thực nhất tạo sự gắn kết bền chặt với quê hương, nguồn cội.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản có tiềm năng khai thác kinh tế du lịch. Ảnh: Minh Châu

Những ngày làm hồ sơ “Không gian văn hóa cồng chiêng”

(GLO)- Ngày 23-3-2004, Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch) ban hành quyết định về việc xây dựng hồ sơ ứng cử quốc gia “Vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là di sản tiếp nối trình UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.

Già làng Đônh (bìa phải) giới thiệu về chiếc nỏ của người Bahnar. Ảnh: R.H

Điểm tựa Kon Brung

(GLO)- Không chỉ tâm huyết với công tác hòa giải, già làng Đônh (SN 1960; làng Kon Brung, xã Ayun, huyện Mang Yang) còn rất tâm huyết với việc bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Với bà con, ông là điểm tựa của làng Kon Brung.

Về miền di sản

Về miền di sản

(GLO)- Những địa danh lịch sử, điểm di sản là nơi thu hút nhiều người đến tham quan, tìm hiểu. Được tận mắt chứng kiến và đặt chân lên một miền đất giàu truyền thống luôn là trải nghiệm tuyệt vời và xúc động đối với nhiều người.

Mừng lúa mới trên cao nguyên

Mừng lúa mới trên cao nguyên

(GLO)- Sau khi thu hoạch mùa vụ và đưa lúa về kho, đồng bào Jrai náo nức với lễ mừng lúa mới. Nghi lễ nông nghiệp cổ truyền độc đáo này đã được bà con duy trì từ bao đời nay.

Biến sản phẩm văn hóa thành quà tặng du lịch

Biến sản phẩm văn hóa thành quà tặng du lịch

(GLO)- Quà lưu niệm từ sản phẩm văn hóa vừa là “sứ giả” du lịch, vừa góp phần đem lại thu nhập cho người dân. Việc tổ chức các cuộc thi tay nghề đan lát, dệt thổ cẩm nhằm tìm kiếm sản phẩm đặc sắc làm quà tặng đã góp phần nâng cao đời sống người dân và thúc đẩy du lịch nông thôn phát triển.