Chuyện về hậu hiền họ Nguyễn ở Phú Cần

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Hàng năm, cứ đến ngày 28-5 âm lịch, dân làng Phú Cần xưa (nay thuộc thôn Thắng Lợi, xã Phú Cần, huyện Krông Pa) lại tập trung về ngôi đền thờ tiền hiền của làng để tưởng nhớ và tri ân các bậc tiền hiền, hậu hiền đã có công xây dựng, phát triển làng xã.

Tại đền thờ, tên tuổi và quê hương những người có công mộ dân lập làng Phú Cần được ghi lại trong “Lời lưu truyền cho con cháu” do ông Nguyễn Hữu Phúc soạn năm 1954. Văn bản này có đoạn: “Phú Cần là người Phú Yên đứng ra sáng lập, tiền hiền là ông Phan Hữu Phàn, hậu hiền là cố Nguyễn Thành Cựu. Hậu tạo là Nguyễn Hữu Phúc”.

16 năm sau, ông Nguyễn Hữu Phúc lại soạn “Bản diện tích ruộng đất canh tác của làng Phú Cần” có xác thực của Xã trưởng xã Sơn Hiếu bấy giờ là ông Ngô Đình Long cũng xác nhận lại như thế.

Đền thờ tiền hiền làng Phú Cần. Ảnh: L.H.S

Đền thờ tiền hiền làng Phú Cần. Ảnh: L.H.S

Về vị tiền hiền Phan Hữu Phàn (1890-1940), trên báo Gia Lai, chúng tôi đã có dịp giới thiệu qua. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu về 2 vị hậu hiền có nhiều công lao trong việc thành lập và phát triển làng Phú Cần xưa là cha con ông Nguyễn Thành Cựu và Nguyễn Hữu Phúc.

Theo “Bản diện tích ruộng đất canh tác của làng Phú Cần” thì ông Nguyễn Thành Cựu là cha của ông Nguyễn Hữu Phúc, được xem là “một vị hậu hiền khai khẩn”. Trong văn cúng tiền hiền tại đền thờ, tên ông Nguyễn Thành Cựu được cung kính xếp ở hàng đầu, với tư cách là “tiền hiền”, chỉ sau ông Phan Hữu Phàn.

Xét về niên kỷ, ông Nguyễn Thành Cựu lớn hơn ông Phan Hữu Phàn 3 tuổi. Tuy nhiên, có lẽ ông Phàn có nhiều đóng góp cho việc mộ dân lập làng hơn nên được triều đình phong chức tước, dân làng nhắc đến ông Phàn nhiều hơn so với ông Cựu. Song hẳn 2 ông đều cùng thời, cùng từ Phú Yên dẫn nhau lên Krông Pa lập ra làng Phú Cần nên được dân làng kính trọng xếp vào bậc tiền hiền.

Theo lời các cháu gái của ông Cựu là bà Nguyễn Thị Ba và bà Nguyễn Thị Tư thì ông quê ở thôn Hòa Đa, xã An Mỹ, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Vợ ông là bà Nguyễn Thị Hòa. Hai ông bà có 4 người con: Con gái đầu (con nuôi của ông, không rõ tên), Nguyễn Hữu Phúc, Nguyễn Hữu Đức, Nguyễn Thị Gặp. Ông Cựu đã dẫn mẹ, con, em rời quê cũ lên Phú Cần lập nghiệp. Khi già yếu, ông trở về quê cũ chữa bệnh và qua đời tại đây. Mẹ ông qua đời tại Phú Cần, hiện còn mộ đá trong vườn ở sát đền thờ. Em trai và em gái ông cũng qua đời tại Phú Cần, mộ táng ở Nghĩa trang huyện Krông Pa.

Mộ ông Nguyễn Hữu Phúc tại Phú Yên. Ảnh: L.H.S

Mộ ông Nguyễn Hữu Phúc tại Phú Yên. Ảnh: L.H.S

Ông Nguyễn Hữu Phúc (con trai ông Nguyễn Thành Cựu) từng làm Lý trưởng xã Phú Cần. Ông là con thứ hai trong gia đình 4 anh em nên người địa phương thường gọi là “ông Xã Ba”. Ông thuộc thế hệ thứ hai, tiếp nối cha mình tham gia vào việc xây dựng, phát triển làng xã nên khi qua đời được dân làng đưa vào văn cúng đền thờ tiền hiền, ghi danh ở bậc hậu hiền của làng.

Nội dung “Lời lưu truyền cho con cháu” có đoạn viết: “Nay tôi là con kế nối xây dựng làng Phú Cần đã quy mộ đồng bào (mất 1-2 chữ) sống cùng nhau trong thời năm 1954 rất là hao tài tốn của (mất 3-4 chữ) đã quá nhiều, nhưng cố gắng lập lại cho thành rồi”.

Như vậy, theo thông tin trên cùng lời con gái ông là bà Nguyễn Thị Ba cho biết thì chính ông Phúc là người bỏ tiền để xây dựng, duy trì hoạt động của đền thờ tiền hiền. Toàn bộ phần đất hiện nay của đền thờ tiền hiền cũng do ông Phúc hiến tặng. Đồng thời, ông Phúc còn là người đứng ra kêu gọi xây đền và lo việc nhang khói, cúng kỵ, tu tảo mồ mả cho các bậc tiền bối của làng.

Tờ phái quy y năm 1967 của ông Nguyễn Hữu Phúc do gia đình còn giữ được cho biết, ông sinh năm Mậu Ngọ (1918), quê quán ở An Mỹ, Tuy An, Phú Yên. Theo lời kể của con gái ông là bà Nguyễn Thị Ba, ông Phúc lên Phú Cần năm 18 tuổi, tức khoảng năm 1936. Vợ ông là bà Nguyễn Thị Bốn (cùng SN 1918, mất vào khoảng năm 2010). Ông bà sinh được 3 người con gồm: Nguyễn Thị Ba, Nguyễn Thị Tư, Nguyễn Hữu Thọ tại Phú Cần. Hiện ông Thọ đã qua đời, bà Ba và bà Tư không lập gia đình, sống cạnh đền thờ tiền hiền trên đất cũ của cha mẹ.

Năm 1975, do đau yếu, ông Phúc về Phú Yên chữa bệnh và năm sau qua đời tại quê nhà. Mộ ông được đặt cạnh mộ mẹ ở Nghĩa trang thôn Phú Long. Vợ ông mất ở Phú Cần, hiện mộ đặt tại Nghĩa trang huyện Krông Pa.

Tuy nổi tiếng trong dân gian là người có quyền lực và giàu có nhưng vợ chồng ông Phúc lại sống khá giản dị. Căn nhà ông ở hiện đã sụp đổ nhưng nhìn những dấu tích còn lại, từ cột kèo, mái, vách, đồ dùng đều rất bình dân.

Theo ông Lê Văn Công-Thành viên Ban phụng sự đền thờ tiền hiền thì ông Nguyễn Hữu Phúc là tín đồ Phật giáo. Ông thọ giới tại chùa Bửu Tịnh vào ngày 16-9-1967, người truyền giới là sư Đức Thiệu. Trên bàn thờ chính trong đền thờ tiền hiền hiện có một trang thờ nhỏ, tương truyền đó là bàn thờ Phật do ông Nguyễn Hữu Phúc đặt.

Năm 2023, UBND huyện Krông Pa đã tiến hành lập hồ sơ di tích cấp tỉnh cho đền thờ tiền hiền làng Phú Cần để ghi nhận công lao của các tiền nhân lập làng Phú Cần. Hy vọng, sau Krông Pa, tại các địa phương khác trong tỉnh, việc tìm hiểu, nghiên cứu vai trò của các vị tiền hiền, hậu hiền trong việc xây dựng làng xã sẽ được các nhà nghiên cứu và chính quyền quan tâm nhiều hơn.

Có thể bạn quan tâm

Những người giữ hồn dân ca Jrai

Những người giữ hồn dân ca Jrai

(GLO)- Nhằm bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa của dân tộc Jrai, nhiều nghệ nhân ở xã Ia Rbol (thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai) từng ngày âm thầm lưu giữ những làn điệu dân ca như một cách thể hiện tình yêu với cội nguồn.

Lưu giữ “men say” của đại ngàn

Lưu giữ “men say” của đại ngàn

(GLO)- Hiện nay, nhiều gia đình người dân tộc thiểu số ở Gia Lai vẫn giữ nghề ủ rượu cần truyền thống từ men lá tự nhiên. Theo thời gian, họ đã cùng nhau lưu giữ “men say” của đại ngàn, giúp cho thức uống mang đậm dấu ấn văn hóa của cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên được chắp cánh bay xa.

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

(GLO)- Đây là số cuối cùng của chuyên mục “Gương mặt thơ” trên báo Gia Lai Cuối tuần do tôi phụ trách.Chuyên mục đã đi được hơn 2 năm (từ tháng 10-2022), tới nay đã giới thiệu tác phẩm của hơn 100 nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn cả nước.

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

(GLO)- Rời quê vào thôn Đà Bắc (xã Ia Lâu, huyện Chư Prông) lập nghiệp đã hơn 30 năm, nhưng cộng đồng người Mường vẫn luôn duy trì và nỗ lực bảo tồn văn hóa cồng chiêng của dân tộc. Với họ, “giữ lửa” cồng chiêng chính là cách làm thiết thực nhất tạo sự gắn kết bền chặt với quê hương, nguồn cội.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản có tiềm năng khai thác kinh tế du lịch. Ảnh: Minh Châu

Những ngày làm hồ sơ “Không gian văn hóa cồng chiêng”

(GLO)- Ngày 23-3-2004, Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch) ban hành quyết định về việc xây dựng hồ sơ ứng cử quốc gia “Vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là di sản tiếp nối trình UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.

Về miền di sản

Về miền di sản

(GLO)- Những địa danh lịch sử, điểm di sản là nơi thu hút nhiều người đến tham quan, tìm hiểu. Được tận mắt chứng kiến và đặt chân lên một miền đất giàu truyền thống luôn là trải nghiệm tuyệt vời và xúc động đối với nhiều người.

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

(GLO)- Tại Kỳ họp thứ 19 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể diễn ra tại Thủ đô Asunción (Cộng hòa Paraguay) vào ngày 4-12, UNESCO đã chính thức ghi danh Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam của Việt Nam vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

(GLO)- Năm 1993, Sở Văn hóa-Thông tin (VH-TT) và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai đã ký kết chương trình phối hợp hành động với nhiều hoạt động thiết thực, trong đó có mô hình “Điểm sáng văn hóa vùng biên”.