Bát nước chè xanh

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Hồi trước, cư dân ở đồng bằng Bắc Bộ thường uống nước lá vối. Đây là thứ lá rất dễ trồng ở vườn nhà, nước vàng xanh có mùi tinh dầu thơm thoang thoảng.

Còn người xứ Nghệ quê tôi thì lại thường uống nước chè xanh. Các loại nước chè ấy đa phần hãm bằng lá tươi trong bình tích lớn. Chỉ những người giàu có mới uống trà (chè móc câu hoặc cũng gọi là chè Tàu), một thứ đọt chè xanh “1 tôm 2 lá” đảo chín, vò săn, sao khô quắt queo, dùng để pha hãm trong các ấm sành sứ nhỏ.

Người nghiện chè Tàu coi như hạng... “phá gia”. Trong tập truyện “Vang bóng một thời” của nhà văn Nguyễn Tuân, có chi tiết trong một câu chuyện mà tôi cứ khắc ghi mãi: Đó là một anh chàng thuộc hạng sành trà đang “thưởng” một ấm trà Tàu theo kiểu “độc ẩm”, bất ngờ có người hành khất bước vào, không xin cơm, không xin gạo, không xin tiền… mà chỉ xin một ngụm nước trà! Người hành khất nọ nhấp nhấp ngụm trà ra vẻ đăm chiêu rồi nói đại ý: Trà ngon, nhưng có mùi trấu! Người chủ nhà rất lấy làm ngạc nhiên, nhưng tỏ vẻ nghi ngại không tin. Người hành khất liền nói đại ý: Xưa kia, anh cũng thuộc vào hạng giàu sang. Vì nghiện trà mà tán gia bại sản nên ra nông nỗi này. Nói rồi, sau khi uống hết ly trà, người hành khất chào bái biệt. Đến khi đổ bã trà, chủ nhà để ý thì thấy quả thực là có mẩu trấu nhỏ lẫn ở trong bình trà. Ông rất thán phục tài “thưởng trà” của người hành khất nọ. Qua chi tiết nhỏ này cũng cho thấy, chè Tàu rất quý hiếm, lại đắt đỏ biết chừng nào; có thể khiến cho người nghiện nó phải khuynh gia bại sản.

Ảnh minh họa: MINH HUỆ

Ảnh minh họa: MINH HUỆ

Hồi nhỏ ở quê, tôi cũng đã từng nghe bà con dân làng bàn tán về những người có thú uống chè Tàu với những lời lẽ như chê bai, mai mỉa kẻ ăn chơi “phá gia chi tử” vậy! Có lẽ vì thế mà người xứ Nghệ quê tôi từ nhiều đời đã có thói quen uống nước chè xanh. Uống quanh năm suốt tháng. Nó như là một thứ nước sâm của nhà quê. Sau buổi cày, để lấy lại sức, người ta thường chế thêm mật mía vào bát nước chè xanh mà uống. Trâu bò kiệt quệ gầy rốc, người ta cũng đổ cái thứ nước chè xanh mật mía ấy mà khỏe lên, mập ra.

Trưa hè, giữa cái nắng thiêu đốt, thêm cơn gió Lào khô rát, đang mệt mỏi lừ đừ, làm bát nước nước chè xanh đặc kẹo thì mát lòng mát dạ. Buổi sáng, uống nước chè xanh có kèm món khoai lang luộc, thấy ngọt bùi, thơm ngon. Buổi tối thì quây quần bên giỏ ủ tích chè mà trò chuyện đủ thứ trên đời. Người dân xứ Nghệ uống nước chè xanh vào loại bát sứ lớn, rót đầy. Ngược lại, với uống nước trà chỉ 1/3 ly nhấp nháp, hít khà; chè xanh uống bát sứ lớn men trắng, có màu vàng sánh rất bắt mắt, bê bát nước là uống ừng ực, đã cơn khô cơn khát. Uống chè xanh phải đến căng bụng, phê chè. Người nghiện chè xanh thì phải uống thứ nước một “cắm tăm” mới đã. Cả xóm nhiều lúc xoay vòng mời nhau uống “nước mới”, là thứ chè xanh nước một ấy. Người quê có câu “Chè nấu lại/gái ngủ trưa” là thứ ôi!

Ở quê, người nghiện chè xanh rất hiểu về lá chè, cọng chè. Chè ngon phải là loại “chè quế”, là giống chè lá dày, giòn, phiến lá vừa phải, cọng lá, thân cành có màu nâu. Trà ấy nước xanh và thơm. Lúc còn ở quê, tôi thường thấy nhà ông thợ rèn quanh năm bên bếp than hừng hực là dồi dào hào phóng nước chè xanh nhất, đàn ông, con trai cả làng thường đến chốn ấy uống chè và tán gẫu đó đây đủ thứ chuyện. Ông thợ bảo: Nghề khói lửa phải uống chè xanh cho... đượm phổi! Mà cái ấm chè xanh của nhà thợ rèn lại khủng vô cùng. Một ngày đến mấy bình lớn, bà vợ không đủ sức vò lá chè, hàng ngày, cứ rửa sạch để ráo, chờ nước sôi thì cho vào cối đá giã dập nát, bỏ vào cái ấm đại mà hãm.

Thật ra, để hãm một ấm chè xanh đúng kiểu cũng cần kỹ năng. Người ta phải lựa từ lá chè, tốt nhất là cành bánh tẻ. Lá được nhặt kỹ, rửa sạch, đun một ấm siêu nước cho sôi già trên bếp. Lá chè xanh chờ có nước sôi mới vò kỹ cho vào bình tích, đổ một ít nước sôi vào tích chè, súc kỹ và gạn kiệt. Đó là động tác rửa sạch lông hôi trước khi hãm. Tiếp theo là đổ đầy nước sôi cho ngập lá, cho vào giỏ tre độn sợi bọc vải có nắp ủ kỹ. Trà hãm độ nửa tiếng đồng hồ thì “chín”, có mùi thơm bay ra là uống được. Nước trà hãm đúng kiểu thì có màu vàng sánh và thơm nồng nàn. Ngược lại, cũng lá chè ấy nếu đun sôi trên lửa ngọn sẽ cho màu đỏ quạch như nước chè dạo, mất hẳn mùi thơm.

Hồi học cấp I trường làng, tôi đã thuộc bài thơ “Bao giờ trở lại” của nhà thơ xứ Nghệ Hoàng Trung Thông, trong đó có những câu như: “Các anh về/Xôn xao làng bé nhỏ/Nhà lá đơn sơ/Tấm lòng rộng mở/Nồi cơm nấu dở/Bát nước chè xanh/Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau…”. Quả là một không khí làng quê kháng chiến xứ Nghệ! Còn nhà thơ Huy Cận, một nhà thơ xứ Nghệ nữa thì lại viết: “Ai ơi cà xứ Nghệ/Càng mặn lại càng giòn/Nước chè xanh xứ Nghệ/Càng chát lại càng ngon!”. Chè xanh xứ Nghệ như một đặc sản của vùng đất gió Lào khô khát. Cái thứ chè uống từng “bát nước đầy”, uống đẫy trưa hè bỏng rát.

Bây giờ, ở Pleiku uống chè xanh đã thành cái gu của khá nhiều người. Cũng giỏ, cũng tích, cũng bát to, ly lớn… Chợ Hoa Lư có đến mấy hàng bán chè xanh mớ. Mùa mưa 5 ngàn đồng một mớ hãm được khoảng vài ba ấm tích. Mùa khô, cành chè, lá chè đắt hơn, tầm 7 ngàn đồng/mớ; nhiều hôm đi muộn thì đã hết hàng.

Cái lối uống chè xanh xứ Nghệ không biết từ lúc nào đã lan truyền đến đất Tây Nguyên, hình thành nên một thói quen như quê tôi bao đời. Kiểu uống nước chè tươi bằng bát, rộng rãi khoáng đạt, bao dung.

Có thể bạn quan tâm

Minh họa: HUYỀN TRANG

Mùa về trên lưng áo mẹ

(GLO)- Từ khi còn nhỏ, tôi đã có thói quen dậy sớm. Mỗi khi tiếng mấy con gà ở chái bếp cất lên, tiếng đòn gánh dựng ở góc nhà sơ ý va vào liếp cửa, tôi lại nghe tiếng ho cố nén của mẹ. Lại thấy thương mẹ nhiều hơn.

Ảnh minh họa: Phạm Quý

Mùa lá rụng

(GLO)- Phố nhỏ của tôi đã vào mùa cây trút lá. Lang thang dọc con đường quen, tôi nhận ra bên hè phố, từng đám lá khô buông dày. Muôn vàn chiếc lá nương theo gió sà xuống những ô gạch cũ, la đà trên mái ngói hiên bàng bạc gam màu trầm. Tôi ngồi trong một góc phố, miên man nghĩ về triền xanh hoa cỏ.

Minh họa: H.T

Ký ức chợ quê

(GLO)- Khi tiếng gà gáy vang lên trên mái nhà, mẹ tôi vội trở dậy chuẩn bị ra chợ. Không chỉ riêng mẹ tôi, việc đi chợ lúc sáng sớm đã trở thành nếp quen của nhiều người dân quê.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

“Biến đám cháy thành pháo hoa”

(GLO)- Đó là cách nói rất hình ảnh về khả năng chấp nhận thực tại không như ý và biến nó thành một phiên bản khác của sự tỏa sáng. Không chỉ là nghị lực vượt khó, đây còn là câu chuyện đẫm chất nhân sinh.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Linh hoạt với cuộc sống

(GLO)- Cuộc đời của mỗi người đều sẽ không ít lần gặp khó khăn, thất bại, vấp ngã, thậm chí muốn từ bỏ, buông xuôi. Nhưng rồi, nếu bạn đủ can đảm thì mọi chuyện sẽ trở nên dễ dàng chấp nhận và có thể vượt qua. Để làm được điều đó, chúng ta cần hiểu bản thân mình và có sự linh hoạt với cuộc sống.

Ảnh: Phạm Quý

Bây giờ đang thắm mùa hoa

(GLO)- Từ dưới chân núi, tôi ngước nhìn vòm trời xanh văn vắt treo đầy những cụm mây trắng xốp. Nổi bật trong không gian cao rộng là màu đỏ của đất bazan và ngờm ngợp sắc hoa, nhất là màu vàng của dã quỳ.

Bước ra ngày mới

Bước ra ngày mới

(GLO)- Lúc còn đi học, mỗi buổi sớm mai, tôi thường nghe thấy tiếng bánh xe lăn trên đường rồi sau đó mới là tiếng những cánh cổng sắt được mở ra, tiếng người đi thể dục lao xao.

Minh họa: HUYỀN TRANG

Vườn bắp của ba

(GLO)- Nhiều năm ở phố nhưng tôi đã quen với đất đồng, quen với sự bình yên làng mạc. Bởi vậy, hễ có dịp là tôi tranh thủ về quê, chẳng nhất thiết là phải cuối tuần.

Minh họa: HUYỀN TRANG

Bài học đầu tiên

(GLO)- Buổi sáng hôm ấy, mẹ nắm tay đưa tôi đến trường lần đầu tiên. Ngôi trường làng nhỏ bé, nằm giữa những tán cây xanh rợp bóng mát. Không gian thoang thoảng mùi thơm của những đóa hoa bên đường.

Vũ khúc cao nguyên

Vũ khúc cao nguyên

(GLO)- Tháng 11, dã quỳ xúng xính váy hoa bung xòe nơi cao nguyên đất đỏ. Dã quỳ như cô gái nhỏ vẫn chung tình thao thiết với cái hẹn nắng lộng, trời xanh.

Dặm dài năm tháng

Dặm dài năm tháng

(GLO)- Tôi ngang qua trường cũ trong một ngày vòm trời xám đục trong bàng bạc hơi sương. Cảnh vật đã không còn như xưa nữa. Chỉ có cây bàng nơi góc sân trường run run giơ những chiếc lá ối đỏ phơ phất vẫy trong gió lạnh.

Ký ức của ba

Ký ức của ba

Bảng khám bệnh điện tử hiển thị con số 106, tôi ngó quanh quất tìm ba tôi. Ông già lại đi lung tung đâu đó. Tôi hớt hải chạy quanh sảnh bệnh viện: “Kia rồi”, chiếc áo kaki màu xanh bộ đội.

Những món đồ cũ

Những món đồ cũ

(GLO)- Mỗi lần sắp xếp lại đồ đạc trong nhà, tôi thường tần ngần ngắm nhìn những món đồ cũ. Những đồ vật vốn vô tri, nhưng khi gắn với cuộc sống con người thì chúng trở nên có hồn và có thể gợi lại những câu chuyện, kỷ niệm khó quên.

Mùa nấm mối

Mùa nấm mối

(GLO)- Đã 3 mùa mưa qua, khu vườn nhà tôi đều xuất hiện nấm mối. Những búp nấm nhú lên mặt lá ủ sau một thời gian dài ủ meo mầm, khi gặp cơn mưa đầu mùa rồi nắng lên vài hôm, có cơn mưa tiếp theo là những tai nấm mối thân trắng, núm đầu dù màu xám đội lên từng khóm.

Minh họa: HUYỀN TRANG

Nhớ mùa cà phê

(GLO)- Lâu lắm rồi, tôi mới có 1 ngày nghỉ rớt vào giữa tuần. Vui vẻ tận hưởng ngày nghỉ đột xuất cũng là một cách để hưởng thụ cuộc sống. Tôi lấy điện thoại ra gọi bạn. Sau một hồi chuông dài, tôi nghe tiếng bạn giữa vô số thanh âm ồn ào. Bạn nói đang bận hái cà phê.

Minh họa: HUYỀN TRANG

Vườn quê giữa phố

(GLO)- Chẳng biết chủ vườn là ai nhưng tự nhiên lại thấy mến khi họ đã mang chút hương đồng gió nội vào chốn phố xá chật chội. Vườn có rau cải ngồng, diếp cá, rau lang, chuối xanh... Bao nhiêu món rau quê cứ thế bày biện.

Bạn đã bao giờ đứng trên đồi thông Ia Dêr của huyện Ia Grai nhìn về phố núi Pleiku để quan sát những biến ảo của thiên nhiên, sự vật, con người?

Khúc ca trên đồi

(GLO)- Bạn đã bao giờ đứng trên đồi thông Ia Dêr của huyện Ia Grai nhìn về phố núi Pleiku để quan sát những biến ảo của thiên nhiên, sự vật, con người?

Ký ức rạ rơm

Ký ức rạ rơm

Tôi đã sống trọn một ngày ở ngôi làng xa lạ ấy. Đó là quãng thời gian tuy ngắn ngủi nhưng hết sức vui vẻ với một người đã mệt nhoài, rã rượi với công việc, đã ho khan với khói bụi thành phố.