Một buổi sớm mai, bước ra vườn nhà bỗng thấy một loại hoa (mà chẳng thấy thân lá ở đâu) mọc lên từ mặt đất với sắc tím nhẹ và hương thơm cũng thật nhẹ, thật khó tả. Ấy là buổi sáng sớm, sau những cơn mưa giải hạn đầu thu, loài bông hoa tinh túy của đất trời xuất hiện thình lình, ngạc nhiên: Bông giờ!
Mùa mưa là mùa của cá đồng, cá sông. Khi mưa xuống, nước sông, nước đồng lên, đầy phù sa, phù du là mùa sinh sôi nảy nở của các loài cá. Bởi thế nên mùa này cá đồng béo ngậy, xương mềm, thịt ngọt. Sự trùng hợp ngẫu nhiên và trở thành không thể thiếu là trong các món ăn từ cá đồng luôn luôn có bông giờ. Cái mùi vị của nó đã làm món ăn trở nên ngon hơn, thăng hoa, đi vào tiềm thức.
Bông giờ không phải nguyên liệu chính của món ăn nhưng vào mùa mưa thu mà các món cá đồng không có loại nguyên liệu đặc biệt này thì món ăn mất ngon, mất cả hồn cốt đồng quê. Bông giờ nêm canh, cá kho, khử bớt mùi tanh, tạo nên một mùi thơm thật đặc biệt. Đến mùa nở rộ, bông giờ hái được cả thúng, người ta nghĩ ra nhiều món với bông giờ: đổ bánh xèo, luộc, xào tỏi chấm mắm ớt dằm…
Với người đồng quê thì bông giờ là vua trong các loại rau gia vị cho các món cá đồng. Còn với người dân miền núi thì bông giờ vững ở vị trí đầu tiên với các món gắn với cá suối, thịt gà, thịt heo, thịt bò… Và trong sự giao lưu trao đổi, bông giờ đến với người dân miền biển lại cũng trở thành món gia vị đỉnh cao cho món kho mẳn, canh chua, canh ngọt, um xào với các loài cá biển…
Cây bông giờ thuộc loài thân thảo, bông và lá giống nghệ, có vị cay họ gừng. Hoa cánh mỏng, màu tím nhạt pha sắc sáng trắng, nhụy hoa màu vàng tươi, hương thơm nồng nàn. Bông giờ có những cánh xếp tầng như hoa lục bình, cao khoảng một gang tay, từ búp tới nở hoàn toàn chỉ vài ba ngày, gặp trời mưa thì bông giờ sẽ tàn nhanh hơn. Mỗi năm, bông giờ nở từ tháng 7 tới tháng 10 âm lịch. Thời gian đầu, hoa nở liên tục, càng về sau ít hoa và dứt hẳn, chỉ còn lá. Lá non, chồi non cũng có mùi thơm, nên khi hoa không còn người ta dùng lá để nêm đồ ăn, mùi thơm dịu nhẹ. Cũng lạ, hình như chỉ có xứ Nẫu mới có loại hoa này.
Tháng cuối năm, bông giờ bắt đầu trụi khô lá, lặn xuống đất, sang mùa hè năm sau người ta đào củ luộc ăn. Củ bông giờ lớn bằng ngón tay cái người trưởng thành, có hình thoi, phình to ở giữa, dài khoảng 3 cm. Củ bông giờ luộc ăn có bột dẻo, vị ngọt, thơm, rất ngon. Bột củ bông giờ có tính mát, bổ dưỡng, pha làm nước giải khát trong những ngày nắng gắt.
Hết mùa, bông giờ lặn sâu vào đất, chờ mưa thu là nhú lên, như có hẹn. Và nhú lên khỏi mặt đất không phải là mầm, là lá, mà là hoa!
Cứ đúng năm, tháng, ngày giờ, gặp những cơn mưa thu là bông giờ bung mầm hoa từ đất, trồi lên. Có lẽ vì yếu tố mùa (thời gian) này mà người ta đặt tên là bông giờ.
Bông giờ thường mọc thành những trảng lớn, thành đám, thành giề liền nhau. Xuất phát từ đặc điểm này nên nó cũng được gọi bông giề. Do đặc điểm phát âm của người dân nơi đây không phân biệt ê/ơ, âm “ê” khó phát âm, nên phần lớn chuyển thành “ơ” “quê - quơ”, “tệ - tợ”, “giề - giờ”...
Theo cách giải thích trên thì cả hai tên gọi: bông giờ hay bông giề cũng là một, là chính nó, là chính cái mùi thơm nồng nàn hương vị đặc trưng gắn với cọng rau, con cá quê mùa, nuôi biết bao thế hệ khôn lớn thành người. Bông giờ càng trở nên đặc biệt hơn giữa cuộc sống hiện đại, bởi nó thật tinh khiết, trong lành lớn lên giữa đất trời, được tưới tắm bằng những cơn mưa thu, tạo nên hương vị đậm đà quê hương.
Bông giờ đã trở thành ký ức, kỷ niệm của nhiều người dân quê xứ Nẫu, như câu ca dao: Ai dìa làm rể Phú Yên/ Bông giờ thơm phức anh ghiền khó quên/ Nẫu mê canh nấu bông giờ/ Ông mau thức dậy đặt lờ đi ông.
Theo Thảo Minh Linh (baodaklak.vn)