Thăm làng Bạc anh hùng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Đã 55 năm trôi qua kể từ ngày 162 người dân làng Bạc Ngó và Bạc Yố (nay là làng Bạc 1, xã Ia Phìn, huyện Chư Prông) thương vong trong cuộc thảm sát năm 1962. Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, hơn 40 hộ gia đình còn sống sót quay trở về làng cũ để cùng nhau xây dựng cuộc sống mới.

Quá khứ đau thương

Những năm 1962-1963, Mỹ-ngụy đẩy mạnh càn quét, dồn dân lập ấp phục vụ cho chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” trên chiến trường miền Nam. Nhân dân làng Bạc Ngó và Bạc Yố lúc bấy giờ cũng bị cưỡng ép, buộc phải rời làng vào sống trong khu đồn Del (đồn làng Pó). Lịch sử truyền thống cách mạng xã Ia Phìn (1945-2015)-NXB Chính trị Quốc gia, 2015 có ghi: Trong thời gian địch dồn dân 2 làng Bạc Ngó và Bạc Yố, Ban Cán sự Đảng huyện 5 đã chỉ đạo cán bộ, đảng viên như: đồng chí Krêl, Rah Lan H’Bình, Bloih, Rah Lan Thônh… bám sát dân làng, lãnh đạo đấu tranh phá ấp, phá đồn trở về làng cũ, quyết làm thất bại âm mưu dồn dân lập ấp của địch.

 

Một góc làng Bạc ngày nay. Ảnh: P.L
Một góc làng Bạc ngày nay. Ảnh: P.L

Trước tình hình bố ráp dồn dân và truy bắt gắt gao của địch, Ban Cán sự Đảng huyện 5 quyết định tấn công phá ấp (đồn Del). Sau 3 tháng nắm tình hình, vào một đêm tháng 10-1962, Trung đội vũ trang tập trung của huyện 5 có lực lượng du kích của xã E5 phối hợp đã tấn công đồn Del. Đồng bào phá ấp, đốt lán trại và về làng cũ trong đêm. Riêng lực lượng thanh niên tạm lánh ra rừng tránh địch truy lùng khủng bố.

Sự kiện dân làng nổi dậy phá ấp, quay về làng cũ khiến quân địch vô cùng tức giận và lập tức cử 1 đại đội lính đến vây 2 làng Bạc. Chúng bắt dân làng xếp thành hàng để tra hỏi và ép quay về ấp. Trước tinh thần không chịu khuất phục của dân làng, quân địch đã điên cuồng nã súng và ném lựu đạn vào bà con. Cuộc thảm sát ấy khiến 162 người chết và bị thương, trong đó có 96 phụ nữ và trẻ em. Có gia đình không còn một ai sống sót. Cuộc thảm sát đã khiến sự căm phẫn lan rộng trong quần chúng nhân dân. Ban Cán sự Đảng huyện 5 phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh phá ấp, tự do làm ăn; đồng thời nhanh chóng chỉ đạo cán bộ, đảng viên bám dân, bám làng ổn định tình hình, tổ chức chôn cất người chết, cứu chữa người bị thương, tìm và đưa số người sống sót chạy ra rừng dựng lán trại tạm sinh sống.

Trong ký ức của bà Kpă H’Ó-Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, cuộc thảm sát năm 1962 mãi là một ký ức đau thương khi bà ngoại của bà bị bắn chết; mẹ, anh trai, em gái bị thương. Người em gái của bà một năm sau thì mất bởi vết thương quá nặng. Nhưng đó cũng là động lực để bà quyết tâm tham gia du kích giúp bộ đội đánh giặc. Bà tâm sự: “Ngày ấy, dù rất khổ cực, người dân làng Bạc vẫn kiên cường cùng nhau đấu tranh, quyết tâm không để bị ép vào sống trong đồn, mọi người đều tìm cách trở về làng cũ để sinh sống. Sau ngày thảm sát, những người còn sống sót lánh vào các làng khác để tránh khủng bố, bắt bớ, sau giải phóng thì trở về lập lại làng và sinh sống đến nay”.

Khởi sắc từng ngày

Sau ngày giải phóng, làng Bạc chỉ vỏn vẹn hơn 40 hộ dân. Những lúc đói kém, củ mài là món ăn chính. Sau 42 năm, làng Bạc ngày nào nay đã thay da đổi thịt, nhà cửa đua nhau mọc lên, cuộc sống nhiều gia đình đã sung túc, đủ đầy. Dọc theo những con đường làng trải nhựa sạch sẽ là những ngôi nhà kiên cố, hàng rào thẳng tắp, ngăn nắp. Cuối chiều, những chiếc xe công nông chở đầy cà phê từ trên rẫy trở về khiến ngôi làng thêm nhộn nhịp, vui tươi.

Chúng tôi tìm đến nhà bà Siu H’Noanh là người từng trực tiếp chứng kiến cha và anh rể bị thương trong vụ thảm sát dân làng năm nào. Sau này, bà H’Noanh cũng tham gia du kích, rồi làm Xã đội phó kiêm Tiểu đội trưởng nữ du kích làng Bạc. Đất nước thống nhất, bà H’Noanh được phân công làm Phó Trưởng Công an xã và đảm nhiệm nhiều vị trí khác nữa. Ngôi nhà xây của bà H’Noanh nằm cách nhà rông của làng chừng 50 m, có một khoảng sân rộng rãi, chiếc xe công nông nằm bên hông nhà, 2 vợ chồng đứa cháu ngoại của bà chuẩn bị chở thóc đi xay. Từ ngày về lại làng, bà H’Noanh cùng các con chăm chỉ làm nương rẫy, gắn với cây lúa và cây cà phê, dần dần thoát nghèo. Bây giờ, 2 ha cà phê cùng vài sào lúa bà để lại cho các con làm, chứ sức bà không còn nữa. Tài sản mà bà để lại mỗi năm cũng đem về nguồn thu khoảng 200 triệu đồng.

Nói về ngôi làng mà mình gắn bó, bà H’Noanh tâm sự: “Bây giờ dù chưa hẳn giàu có nhưng ai trong làng cũng đủ ăn đủ mặc, nhà nào cũng có ruộng, có rẫy, biết chăn nuôi. Có nhiều nhà biết tiết kiệm sắm sửa ti vi, tủ lạnh, xe máy, xe công nông… Mình cũng luôn răn dạy con cháu trong nhà phải chăm chỉ, không lười biếng, phải luôn giữ vững tinh thần cách mạng của người dân làng Bạc”.

Trao đổi với P.V, ông Trần Văn Duân-Chủ tịch UBND xã Ia Phìn, cho biết: “Làng Bạc 1 hiện có 122 hộ với 509 khẩu, 100% là người Jrai. Đây là ngôi làng kiên cường chống giặc trong kháng chiến chống Mỹ, khi trở về thời bình gặp khá nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế bởi tư liệu sản xuất không còn. Nhiều năm qua, chính quyền địa phương ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng từ đường giao thông (96% đường nhựa, bê tông), nhà rông, trường học… cũng như đầu tư nhiều chương trình, dự án cho người dân làng Bạc 1. So với trước đây, làng Bạc 1 bây giờ đã có nhiều đổi thay, bà con trong làng chú trọng làm ăn, phát triển kinh tế. Bên cạnh cây lúa nước, bà con đã biết trồng cà phê, hồ tiêu và chăn nuôi heo, bò... Hiện làng còn khoảng 25 hộ nghèo và 17 hộ cận nghèo”.

Phương Linh

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Đề án 06: Động lực xây dựng tỉnh nhà hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

(GLO)- Triển khai Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030, các cơ quan, ban, ngành, đơn vị phối hợp chặt chẽ để tháo gỡ những điểm nghẽn, khó khăn, bất cập nhằm thực hiện đúng tiến độ.

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Cùng với mục tiêu đánh chiếm pháo đài Đồng Đăng, quân địch dồn lực lượng để bao vây, đánh chiếm cứ điểm hang Đền Mẫu án ngữ con đường dẫn đến thị trấn Đồng Đăng. Tại đây, quân và dân địa phương đã kiên cường bám trụ 3 ngày đêm chống lại quân xâm lược.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Ở góc Tây Nam

Ở góc Tây Nam

Bà chủ homestay đầu tiên trên đảo Hòn Đốc (Kiên Giang) - Phương Thảo - kể hồi mới theo chồng ra đảo, ở đây cái gì cũng thiếu. Nước ngọt mỗi ngày đều phải chờ xà-lan chở từ Hà Tiên ra, mỗi nhà xách theo một can 30l ra cầu cảng nhận phát nước.

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa nước bên bờ dòng Kinh Giang, xã Tịnh Khê (TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) gắn liền với lịch sử kháng chiến thống nhất đất nước. Hiện đây là nơi mưu sinh của người dân và là điểm du lịch hấp dẫn.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Làng Quy Hòa, ngôi làng nhỏ nằm nép mình bên bờ biển Quy Nhơn, là nơi trú ngụ cho những bệnh nhân phong trong nhiều thập kỷ. Trải qua nhiều biến động, cùng với tiến bộ của y học, căn bệnh nan y ngày nào đã không còn là nỗi ám ảnh.