Quay cuồng trong cơn khát cát - Bài 5: Đâu là lời giải?

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Từng là vùng “đất biết đi” - hằng năm bồi lắng lấn dần ra biển, nhưng giờ đây, ước tính của ngành chức năng, vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) mỗi năm đang mất từ 300 - 500ha đất do sạt lở.

Cùng đó, độ lún của vùng đất này gấp 10 lần tốc độ nước biển dâng. Điều này đòi hỏi các giải pháp căn cơ và dài hạn từ nhiều phía.

Sụt lún gấp 10 lần nước biển dâng

Báo cáo đưa ra tại Hội nghị Hội đồng điều phối vùng ĐBSCL lần thứ 4 diễn ra tháng 7 vừa qua, Bộ KH&ĐT đánh giá, những năm gần đây, vùng ĐBSCL đối mặt với sạt lở bờ sông, bờ biển và sụt lún. Ước mỗi năm, cả vùng mất từ 300 - 500ha đất và hàng chục ngàn hộ dân có nguy cơ phải di dời do trong vùng nguy hiểm sạt lở. Ngoài ra, việc khai thác nước ngầm quá mức đang gây sụt lún đất. Trong 30 năm qua, nhiều vùng ở ĐBSCL nước ngầm hạ xuống hơn 5m, gây sụt lún đất trung bình cho toàn khu vực cao gấp 10 lần tốc độ nước biển dâng.

Bộ KH&ĐT cũng dẫn các báo cáo khác nhau và đưa ra nhiều nguyên nhân của tình trạng sạt lở vùng ĐBSCL. Nghiên cứu của Ủy hội sông Mê Kông quốc tế (MRC) đưa ra dự báo, đến năm 2040, lượng phù sa về ĐBSCL chỉ còn 3 - 5% (số còn lại bị giữ ở các đập thượng nguồn - PV). Hậu quả, phù sa giảm làm gia tăng sạt lở bờ sông, biển vùng hạ du. Bên cạnh đó, việc khai thác cát quá mức trên các sông ở ĐBSCL cũng gây mất ổn định lòng và bờ sông, gây sạt trượt bờ sông; các khu dân cư sát bờ sông với nhiều công trình xây dựng làm tăng tải, trong khi bờ sông là đất phù sa yếu nên dễ sạt lở, sụt lún.

Ông Nguyễn Hữu Thiện (chuyên gia độc lập về sinh thái ĐBSCL) nhận định, với thực tế hiện nay, sạt lở vùng ĐBSCL còn diễn ra thêm hàng chục năm nữa do phù sa sông Mê Kông về ngày càng giảm; khai thác cát sông và nước ngầm quá mức. Theo ông Thiện, việc thiếu phù sa làm cho nước "đói" nên phải “ăn” vào bờ, đáy sông, dẫn tới sông sâu hơn, bờ cao và nặng hơn, tạo mái dốc nên dễ trượt sụt, sạt lở để bù vào. Sông Tiền và sông Hậu - hai sông chính vùng ĐBSCL hiện có đáy sâu hơn trước, nên phải rút đáy từ các sông nhánh ra để bù. Các sông nhánh lại tiếp tục rút đáy các nhánh của nó, sạt lở theo đó mà lan khắp nơi, tới cả các sông, kênh nội đồng. “Điều này lý giải vì sao sạt lở vùng ĐBSCL hiện không chỉ ở các sông chính như trước đây, còn xuất hiện tại các sông, kênh rạch nội đồng”, ông Thiện nói.

Cần giải pháp bền vững

Để ứng phó với tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển, thời gian qua các địa phương vùng ĐBSCL đã dùng nhiều nguồn lực xây dựng công trình kè ở những vùng sạt lở nghiêm trọng. Tuy nhiên, giải pháp làm bờ kè kiên cố để chống sạt lở vừa tốn kém vừa chưa chắc hiệu quả, khi một số vị trí bờ kè này sau vài năm cũng xuất hiện sụt lún, sạt lở.

Tại Hậu Giang đang triển khai các mô hình kè sinh thái chống sạt lở. Bờ kè có lớp đầu tiên bằng hàng rào cọc tre, tràm, sau đó lót lưới để đắp đất, phần đất đắp này được trồng cây tràm, bần, tiếp sau đó trồng dừa, cà ná. Sau 2-3 năm, bờ bao ổn định đủ sức chống sạt lở, cây trồng có giá trị kinh tế (dừa, cà ná) cho thu hoạch.

Ông Nguyễn Văn Thiết (xã Tân Bình, huyện Phụng Hiệp, Hậu Giang) cho biết, trước đây, tuyến kênh trước nhà rất nhỏ, nhưng sạt lở nên kênh ngày càng rộng, còn đất sản xuất, đường giao thông cứ hẹp dần. Để chống sạt lở, chính quyền và người dân đã triển khai hệ thống kè sinh thái, giờ tình hình sạt lở đã giảm nhiều, lại có thêm hàng cây xanh mát, cho giá trị kinh tế.

Hiện trường vụ sạt lở tuyến đê bao tại xã Hòa Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long ngày 18/6/2024 Ảnh: Cảnh Kỳ

Hiện trường vụ sạt lở tuyến đê bao tại xã Hòa Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long ngày 18/6/2024 Ảnh: Cảnh Kỳ

Chi cục Thủy lợi Hậu Giang tính toán, chi phí thực hiện mỗi mét vuông kè sinh thái chỉ khoảng 150.000 đồng, bằng 1/10 so với kè bê-tông, lại dễ thực hiện, triển khai hiệu quả xuống từng hộ dân. Ông Trương Cảnh Tuyên, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Hậu Giang cho biết, song song với các công trình kè kiên cố, tỉnh cũng phát động phong trào làm kè sinh thái chống sạt lở và đã mang lại hiệu quả. Trong 4 năm trở lại đây, toàn tỉnh đã triển khai được hệ thống kè sinh thái dài hơn 200km, tập trung trên tuyến kênh cấp 1, 2. Cùng với đó, địa phương cũng vận động người dân hạn chế xây dựng các công trình kiên cố ven sông, di dời dân khỏi những vùng nguy cơ sạt lở cao…

Theo một số chuyên gia, với vùng ĐBSCL, giải pháp xây bờ kè bê-tông kiên cố chống sạt lở là việc “bất đắc dĩ”, nên chỉ làm ở những nơi xung yếu. Không nên làm kè kiên cố tràn lan, bởi không đảm bảo an toàn tuyệt đối và rất tốn kém, không bao giờ đủ tiền để chạy theo sạt lở, vì thực tế tình trạng bờ kè bị sụp đổ cũng xảy ra nhiều nơi. Do vậy, nên ưu tiên di dân khỏi khu vực bờ sông nguy cơ sạt lở để giảm chất tải lên bờ, giảm khai thác cát và nước ngầm. Hệ thống cống ngăn mặn cũng cần được đầu tư và vận hành có tính toán, hài hoà trong điều tiết nước, tránh cản dòng chảy làm hụt nước phía trong nội đồng gây co ngót đất tạo sụt lún (như xảy ra ở khu vực U Minh của Cà Mau và Kiên Giang mùa khô vừa qua).

Tại buổi tiếp xúc cử tri Cần Thơ diễn ra ngày 14/7 vừa qua, trả lời kiến nghị của cứ tri về ưu tiên nguồn vốn đầu tư các công trình phòng chống sạt lở, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết: Thời gian qua, Chính phủ đã ưu tiên nguồn lực để ứng phó sạt lở, sụt lún cho vùng ĐBSCL. Mới nhất, năm 2023, Chính phủ quyết định bổ sung 4.000 tỷ đồng từ nguồn dự phòng ngân sách Trung ương cho các địa phương trong vùng thực hiện các dự án chống sạt lở.

PGS.TS Phan Thanh Bình, nguyên Giám đốc ĐHQG TPHCM đưa ra nhận định tại một hội thảo mới đây rằng, phải chăng sụt lún, sạt lở vùng ĐBSCL có phần tới từ khai thác cát và nước ngầm, nên cần nhận thức rõ việc này. ĐBSCL sụt lún gấp 10 lần nước biển dâng, lún sụt chủ yếu do tác động của con người. Bởi ĐBSCL là vùng đất mới, nếu không giữ được nước, không giữ được trầm tích sẽ lún. “Chính sách, giải pháp đã có nhiều, nhưng đã tới lúc phải đi vào bản chất, căn cơ lâu dài, hướng tới hàng chục năm, thậm chí trăm năm cho ĐBSCL phát triển bền vững”, TS Bình nói.

Sụt lún tại vùng ngọt hóa huyện Trần Văn Thời (Cà Mau) vào đầu năm 2024 Ảnh: Tân Lộc

Sụt lún tại vùng ngọt hóa huyện Trần Văn Thời (Cà Mau) vào đầu năm 2024 Ảnh: Tân Lộc

PGS.TS Lê Anh Tuấn (giải viên Trường ĐH Cần Thơ) kiến nghị, các địa phương ĐBSCL phải lập bản đồ các khu vực nguy cơ sạt lở. Việc quản lý sông rạch phải chặt chẽ hơn. Ngành thủy lợi cần nghiên cứu để có những đề xuất xây dựng công trình ổn định lòng sông ở các vị trí xung yếu về kinh tế và dân cư. Các vùng ven biển phải ưu tiên giải pháp trồng rừng ngập mặn, trồng cây giữ đất trước khi tìm kiếm các giải pháp công trình kè kiên cố. Các địa phương vùng ngập lũ nên giảm bớt diện tích đê bao cho trồng lúa vụ 3, mở đê đón lũ để nhận phù sa thay vì để dòng lũ xiết hơn về phía hạ lưu…

(Còn nữa)

Theo Cảnh Kỳ (TPO)

Có thể bạn quan tâm

Nông sản Việt đang ở đâu?

Nông sản Việt đang ở đâu?

Thời điểm hiện tại, Việt Nam đang vào vụ thu hoạch các mặt hàng nông sản như: vải, nhãn, sầu riêng, thanh long,… Câu hỏi đặt ra giải pháp nào để xúc tiến xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản mùa vụ Việt Nam tránh tình trạng ùn ứ, điệp khúc “được mùa mất giá”.

Lặng thầm nghề giám định pháp y

Lặng thầm nghề giám định pháp y

(GLO)- Trong hành trình phá án, đội ngũ bác sĩ và cán bộ giám định pháp y của Phòng Kỹ thuật hình sự (KTHS), Công an tỉnh Gia Lai đóng vai trò rất quan trọng. Tuy vất vả nhưng họ vẫn cần mẫn làm việc, góp phần đấu tranh phòng-chống tội phạm và giữ bình yên cuộc sống.

Vào 'lò' gia công mỹ phẩm

Vào 'lò' gia công mỹ phẩm

Thị trường mỹ phẩm “nóng rực” khi hàng loạt sản phẩm vô chủ vứt bừa bãi, doanh nghiệp ồ ạt xin thu hồi công bố. Phóng viên đã thâm nhập thị trường mỹ phẩm để tận thấy cách thức hô biến đồ rẻ tiền thành cao cấp, chiêu trò của các ông trùm vươn vòi bạch tuộc, bủa vây người người tiêu dùng.

Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt

Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt

Với đường bờ biển dài, điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn lợi thủy sản phong phú, Việt Nam sở hữu lợi thế lớn về nghề nuôi biển. Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành các chính sách nhằm tháo gỡ những nút thắt, phát huy tiềm năng, hướng tới mục tiêu phát triển nghề nuôi biển hiện đại, bền vững.

Bắt chồng giữa đại ngàn

Bắt chồng giữa đại ngàn

Nằm nép mình dưới chân núi Voi hùng vĩ, thôn Đarahoa hiện có hơn 340 hộ dân sinh sống, trong đó 80% là đồng bào dân tộc K’Ho. Không chỉ nổi bật bởi khung cảnh đại ngàn thơ mộng, Đarahoa còn gìn giữ một trong những phong tục đặc sắc bậc nhất của người K’Ho, tục "bắt chồng".

Những bưu tá mang báo Đảng tới vùng biên

Những bưu tá mang báo Đảng tới vùng biên

(GLO)- Trong thời đại mà mỗi người đều có smartphone, mạng xã hội nhảy số từng giây, vẫn có những người đều đặn chờ báo giấy để đọc từng mục, gạch từng dòng. Vì lẽ đó, ở xã vùng sâu, xã biên giới, bưu tá vẫn lặng lẽ mang báo Đảng đến tay các cán bộ cơ sở, đảng viên, người có uy tín...

Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân tặng giấy khen cho các nhà báo, phóng viên hoàn thành chuyến thăm, chúc Tết cán bộ, chiến sĩ Nhà giàn DK1. Ảnh: N.Q

Tác nghiệp trên Nhà giàn DK1

(GLO)- Vượt qua hàng trăm hải lý để đến với Nhà giàn DK1 là một trải nghiệm không thể nào quên đối với người làm báo. Càng đặc biệt hơn đối với tôi khi đây là lần đầu tiên được đặt chân lên Nhà giàn DK1 tác nghiệp, để thấm thía thế nào là gian khó, thế nào là tự hào.

Nhớ thời làm báo trong kháng chiến

Nhớ thời làm báo trong kháng chiến

(GLO)- Trong kháng chiến, bên cạnh những người lính cầm súng chiến đấu còn có nhiều phóng viên chiến trường với “vũ khí” là chiếc máy ảnh, cuốn sổ tay, cây bút để ghi lại từng khoảnh khắc của lịch sử. Ông Nguyễn Đức Thanh và ông Lý Vĩnh Hoa là những nhà báo như vậy.

null