Những làng nghề bên Thành Hoàng Đế - kỳ 2: Làng rèn làng đúc chen vai

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Những tiếng búa của làng rèn Nam Tân, Tây Phương Danh và làng đúc Bằng Châu quanh thành xưa vẫn rậm rịch mỗi ngày.

Nhìn cảnh làm ăn nhộn nhịp ở hai làng nghề này, tưởng như thời những người thợ ở đây đang dốc sức làm binh khí cho các cuộc tiến quân của anh em nghĩa quân Tây Sơn ngày nào...

 

Anh Trương Văn Bằng, 40 tuổi, rèn với máy búa ở lò rèn của mình.
Anh Trương Văn Bằng, 40 tuổi, rèn với máy búa ở lò rèn của mình.

Rộn ràng tiếng búa lò rèn

Mới 6 giờ sáng, những lăng miếu quanh Tử Cấm Thành đã bị đánh thức bởi tiếng búa vang lên từ những lò rèn nằm bên khu thành nội.

“Nghề rèn phải chịu lửa nên mình phải làm sớm để nghỉ trưa sớm. Nhưng thời nay đỡ cực rồi, nhờ có cái quạt máy...” - ông Trương Cẩn, vị “lão tướng” 80 tuổi ở làng rèn Nam Tân, vừa nói vừa giũa một chiếc rựa.

Để giữ được ngọn lửa rèn trước sự lấn lướt của hàng rèn, hàng đúc Thái Lan, Trung Quốc, người thợ ở đây đã gian nan không ít.

Phải cơ giới hóa nghề rèn trong cuộc cạnh tranh với hàng ngoại, một số thợ trẻ ở Nam Tân đã chắt bóp vốn liếng để sắm búa máy (búa điện), lò thổi (nấu/nung sắt) bằng điện, máy đột (cắt) sắt định hình.

“Năm 2004, sau khi theo học khóa học về cơ khí ở Quy Nhơn, tui sắm búa máy, lò điện thay cho búa tay, lò thổi bằng than để tăng sản lượng, hạ giá sản phẩm. Có hai loại máy này mình tăng năng suất gấp năm, gấp mười so với rèn theo lối thủ công...” - anh Trương Văn Bằng (40 tuổi), một trong số năm chủ lò mở ra việc cơ giới hóa nghề rèn ở Nam Tân, kể lại.

Ngoài làm ra thành phẩm, những lò rèn ở Nam Tân còn chuyên dập ra phôi (sản phẩm mới qua sơ chế) để bán cho các lò rèn khác đem về gia công khâu cuối.

Nhờ có phôi, người thợ ít tốn sức hơn nên lớp thợ già, cả đến phụ nữ vẫn làm được; hàng làm ra được nhiều, nhanh, đủ để bán sỉ, lại bán với giá phải chăng nên dễ bán hơn trước.

Phôi từ các lò rèn máy ở đây còn được bán cho bạn hàng các vùng Quảng Ngãi, Quảng Nam, Nam Trung bộ, Đông Nam bộ, Tây nguyên.

Từ khi có các lò rèn cơ giới, Nam Tân nay chỉ còn 30 lò thủ công, giảm hơn phân nửa so với thời sau hòa bình - thời cực thịnh của rèn Nam Tân, nhưng số sản phẩm làm ra lại nhiều hơn, đa dạng và có chất lượng hơn.

Kịch bản phát triển của Nam Tân cũng là của Tây Phương Danh - làng rèn được “sinh ra” từ Nam Tân và nối dài với Nam Tân. Sinh sau mà lại nhanh nên vai nên vóc, Tây Phương Danh trở thành làng rèn lớn bên cạnh Nam Tân.

“Tây Phương Danh hiện có hơn 600 hộ, trước năm 2000 có đến 97% số hộ theo nghề rèn. Nay chỉ còn 80% số hộ rèn, nhưng 20% còn lại cũng sống dựa nghề rèn, từ buôn bán sắt, phụ liệu nghề rèn, buôn bán hàng rèn...” - Bí thư chi bộ khu Tây Phương Danh Nguyễn Đình Long cho biết.

Sáng danh thợ đúc Bằng Châu

 

Thợ đúc Phan Tường Thiệu bên những sản phẩm mới của làng đúc Bằng Châu như nhông đồng, khoen đồng dùng cho nghề đánh bắt cá xa bờ.
Thợ đúc Phan Tường Thiệu bên những sản phẩm mới của làng đúc Bằng Châu như nhông đồng, khoen đồng dùng cho nghề đánh bắt cá xa bờ.

Lò đúc của thợ Bằng Châu được dựng tại nhà, bên những con đường trải nhựa, trải bêtông trong khu dân cư mang dáng dấp phố thị. Mang ra hai chiếc chuông đồng mới được đúc, ông Trần Néo, 79 tuổi, không giấu được niềm vui khi chúng có tiếng ngân vừa vang xa, vừa trong trẻo và ấm.

“Đúc đồ tiếng công phu lắm. Nhiều khi cái chuông đúc xong kêu tiếng không vừa ý thì người thợ phải đành phá đi để đúc lại. Để được gọi là làng đúc thì cái chính là người thợ của làng phải biết đúc đồ tiếng như chuông, chiêng, thanh la.

Còn đúc những đồ dùng khác như nồi, thau, đồ thờ tự... tuy không dễ nhưng cũng không quá khó như đúc đồ tiếng...” - ông Néo, người thợ đúc cao tuổi nhất của Bằng Châu, giải thích.

Nhưng làng đúc Bằng Châu không dễ giữ nghề trước sức xâm lấn ồ ạt của các mặt hàng công nghiệp thay thế. Và thế cùng tất biến, từ đúc đồng chuyển sang đúc nhôm chưa đủ, thợ Bằng Châu lại mày mò học tiện, học đúc kim loại.

“Hơn 10 năm nay thợ làng mình chuyển qua đúc các linh kiện cho máy bơm nước, máy tàu thủy. Vậy là mình phải nắn khuôn, đúc, tiện, giũa.

Linh kiện máy móc buộc mình làm phải thật chuẩn, thật chính xác. Khó ghê lắm, nhưng nhờ cái tay nghề của thợ đúc đồng nên thợ ở đây đã làm được. Hàng mình làm có chất lượng, được khách hàng tin dùng lắm...” - anh Trần Hữu Chí (42 tuổi) nói trong lúc đang hoàn thiện một linh kiện máy nước anh mới đúc xong tại lò đúc ở nhà.

Năm năm nay một số thợ Bằng Châu mở xưởng đúc lớn hơn tại cụm công nghiệp Đá Trắng nằm kề làng mình.

Tài nghệ của nghề đúc được thừa kế từ tổ phụ hàng trăm năm trước dẫn bước cho người thợ Bằng Châu thời nay, họ không chỉ bắt nhịp được mà còn sáng tạo trong công nghệ đúc mới, tiếp cận được với nhu cầu thực tiễn của khách hàng.

“Tụi tui đang đúc các mặt hàng như cảo (tời) kéo lưới, nhông đồng cho tời của giã cào hay khoen đồng, khoen chì cho lưới các tàu cá xa bờ. Rồi còn đúc một số linh kiện cho các máy thủy điện nữa. Làm hoài cũng không hết việc...” - anh Đặng Văn Hưng (48 tuổi), với 20 năm làm thợ khuôn và cũng là thợ đúc đồng Bằng Châu đang làm cho xưởng đúc Đường Minh, cho biết.

Thật ấn tượng khi những người thợ đúc chỉ quen với các sản phẩm đúc truyền thống nay lại làm chủ được công nghệ cho ra những sản phẩm đúc dùng cho máy móc, cơ giới cùng nhiều sản phẩm đúc khác với nhiều công dụng.

“Qua nhiều thăng trầm, lận đận, nay thì làng đúc Bằng Châu mình đã trụ lại được, đã thích ứng được với thị trường đồ đúc, nhất là đồ đúc cho máy móc thay hàng ngoại nhập. Vậy là người thợ Bằng Châu đã giữ được cái tiếng của làng nghề từ ông cha để lại...” - chủ xưởng đúc Đường Minh, ông Đào Tấn Minh (62 tuổi) bày tỏ.

Theo tuoitre

Có thể bạn quan tâm

Dư vang Plei Me

Dư vang Plei Me

(GLO)- 60 năm đã trôi qua kể từ chiến thắng Plei Me lịch sử (tháng 11-1965), nhưng dư vang của trận đầu thắng Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên vẫn còn vẹn nguyên trong ký ức của những cựu binh già. 

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

null