Những chuyện kỳ thú đồng tiền Việt Nam: Đồng tiền độc lập thời Đinh Tiên Hoàng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Những đồng tiền không chỉ có giá trị vật chất, tiêu dùng. Đằng sau đó còn là câu chuyện của con người, triều đại, lịch sử. Đồng tiền tự hào khẳng định độc lập. Có đồng tiền lại mang đậm tư tưởng Nho giáo, tôi trung vua hiền. Có đồng tiền ngoại giao. Lại có những đồng tiền bất chấp quy luật kinh tế và sau đó mau chóng không được lưu hành... Nhìn vào câu chuyện sau những đồng tiền để thấy nhiều giá trị khác.

 Những hiện vật tiền Thái Bình Hưng Bảo còn lại tới nay. ẢNH: VIỆN NGHIÊN CỨU KINH THÀNH
Những hiện vật tiền Thái Bình Hưng Bảo còn lại tới nay. ẢNH: VIỆN NGHIÊN CỨU KINH THÀNH


Tiền Thái Bình Hưng Bảo là đồng tiền đầu tiên của nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập.
 

Niềm tự hào của nhà Đinh

Khi PGS-TS Bùi Minh Trí, Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh thành, tổ chức nhà trưng bày của cố đô Hoa Lư, ông đã không phải suy nghĩ nhiều trong việc chọn các hiện vật tiêu biểu. “Hiện vật quý nhất là đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo - đồng tiền đầu tiên của triều Đinh. Sau khi xưng đế năm 968, tới năm 970, vua Đinh Tiên Hoàng phát hành đồng Thái Bình Hưng Bảo này với khát vọng cháy bỏng cho sự hưng thịnh của đất nước. Ngoài ra còn có hiện vật quý giá không kém là viên gạch có chữ Đại Việt quốc quân thành chuyên, nghĩa là gạch xây quân thành nước Đại Việt. Cả hai hiện vật đều thể hiện ý chí tự lập tự cường, tự chủ của một quốc gia độc lập thống nhất”, PGS-TS Trí cho biết.

GS Đỗ Văn Ninh, Viện Khảo cổ học, cũng khẳng định trong cuốn Tiền cổ Việt Nam: “Cho tới nay, mọi người đều thừa nhận rằng đồng tiền đầu tiên trong lịch sử nước ta được đúc dưới thời Đinh Tiên Hoàng (968 - 980)”.

Tiền Thái Bình Hưng Bảo đúc bằng đồng. Tiền tròn, lỗ vuông, có gờ với viền mép và viền ô cả ở mặt tiền lẫn lưng tiền. Chữ đọc chéo từ trên xuống dưới, từ trái sang phải. GS Đỗ Văn Ninh cũng đặt ra vấn đề liệu có đồng tiền nào của Trung Quốc cũng có tên là Thái Bình Hưng Bảo để có thể bị lẫn với tiền Thái Bình Hưng Bảo thời Đinh của nước ta hay không.

Theo GS Ninh, ở Trung Quốc, đời Tống Thái Tông, nhà Bắc Tống đặt niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc vào những năm 976 - 983. Vào thời này, tiền thông bảo, tiền mang niên hiệu nhà vua đã ra đời. Tuy nhiên, ghi chép về tiền tệ Trung Quốc cho hay vua Tống Thái Tông chỉ đúc tiền Thái Bình Thông Bảo. Đồng tiền này sau lưng không có chữ gì nên không khó phân biệt với tiền Thái Bình Hưng Bảo của ta. Vua Liêu Thái Thông những năm 1021 - 1030 cũng có niên hiệu Thái Bình nhưng lại không đúc tiền theo niên hiệu của mình.

Theo khảo cứu của GS Đỗ Văn Ninh, sách Quan tự đắc trai tùng thư viết rằng tiền có chữ Đinh ở phía lưng là tiền Thái Bình Hưng Bảo của nhà Đinh nước ta. “Về mặt hình dáng, tiền Thái Bình Hưng Bảo khác hẳn các loại tiền Trung Quốc với niên hiệu này. Do vậy, vấn đề đồng Thái Bình Hưng Bảo là sản phẩm đúc thời Đinh Tiên Hoàng không còn điều gì đáng phải bàn thêm”, GS Ninh đánh giá.

Đồng tiền chúc phúc, mừng độc lập

PGS-TS Phạm Quốc Quân, nguyên Giám đốc Bảo tàng lịch sử quốc gia, cho biết kỹ thuật đúc tiền Thái Bình Hưng Bảo tương đối thô. Căn cứ vào tiêu bản mẫu vật có thể phân biệt tiền Thái Bình Hưng Bảo làm 2 loại chủ yếu. Thứ nhất là loại lưng trơn. Tiền này có nhiều bản, có loại tiền to chữ to, tiền nhỏ chữ nhỏ, có loại nét chữ mảnh, có loại nét chữ thô to. Loại thứ hai, tiền mặt lưng có chữ Đinh là họ của vua. Mặc dù vậy, mặt tiền thuần phác, phong cách cơ bản thống nhất, có nhiều điểm giống với tiền thời Ngũ Đại của Trung Quốc.

Tuy nhiên, theo ông Quân, tiền Thái Bình Hưng Bảo cũng có những điểm khác biệt so với các loại tiền Trung Quốc trước và đồng thời với nó. Trước thế kỷ 10, hầu hết các loại tiền Trung Quốc đều ghi chữ “thông bảo”, ngoài ra còn ghi “nguyên bảo”, “trọng bảo”. “Chữ Hưng trong tiền Thái Bình Hưng Bảo của Đinh Bộ Lĩnh là một điểm sáng tạo của tiền Việt Nam. Hưng Bảo tức là khác với loại tiền thông bảo truyền thống của Trung Quốc. Câu này còn mang ý nghĩa chúc phúc nước Đại Cồ Việt quốc vận hưng thịnh, đời đời hưởng thái bình”, PGS-TS Phạm Quốc Quân phân tích.

PGS-TS Quân cho rằng giai đoạn đầu của triều Đinh, chiến tranh liên miên, nông dân phiêu tán, nông nghiệp đình đốn, thủ công nghiệp chủ yếu phục vụ việc chế tạo vũ khí. Sau khi chiến tranh kết thúc, Đinh Bộ Lĩnh bắt đầu khôi phục sản xuất, nông dân trở về quê cũ, thương nghiệp thành thị bắt đầu xuất hiện. Sau khi triều Đinh được thành lập đúc tiền niên hiệu Thái Bình, tức loại tiền Thái Bình Hưng Bảo.

Ông Quân cũng cho biết tiền Thái Bình Hưng Bảo có lẽ được đúc tập trung trong khoảng niên hiệu Thái Bình từ năm thứ nhất đến năm thứ 8. “Sau đó, nội bộ chính quyền nhà Đinh không ngừng tranh chấp, chính cuộc rối ren, việc đúc tiền có phần bị hạn chế, hoặc ngừng hẳn. Tiền Thái Bình Hưng Bảo chủ yếu được sử dụng ở miền Bắc Việt Nam, lưu thông trong địa bàn của chính quyền nhà Đinh”, ông Quân cho biết.

Chính vì thế, ông Quân cho rằng: “Tiền Thái Bình Hưng Bảo là đồng tiền đầu tiên của nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập. Cho dù phạm vi lưu thông còn hạn chế, nhưng đối với lịch sử phát triển tiền tệ Việt Nam có một ý nghĩa vô cùng trọng yếu”.

Theo TRINH NGUYỄN (TNO)

Có thể bạn quan tâm

Già làng “2 giỏi” của xã Ia Phí

Già làng “2 giỏi” của xã Ia Phí

(GLO)- Ông Rơ Châm Khir (SN 1954, làng Kênh, xã Ia Phí, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai) không chỉ có đôi tay tài hoa vẽ những bức tranh sơn dầu, tượng gỗ dân gian đặc sắc, mà còn là già làng uy tín được cộng đồng tin tưởng.

Phát huy sức mạnh văn hóa

Phát huy sức mạnh văn hóa

Khi các giá trị văn hóa, di sản và nghệ thuật tạo ra lợi nhuận nó không chỉ tự “nuôi sống” mình mà còn góp phần tạo thêm những nguồn lực mới, tác động tích cực đến các lĩnh vực khác của ngành công nghiệp văn hóa.

Đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi

(GLO)- Người Tây Nguyên làm du lịch không chỉ bằng khu nghỉ dưỡng, mà còn bằng lòng hiếu khách và nghệ thuật kể chuyện. Vậy nên, đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi mà hãy đánh thức nó bằng chính giọng nói của rừng, bằng bàn tay của bà con và bằng tình yêu với buôn làng của mình.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Nhắc đến đại ngàn Tây Nguyên, có lẽ biểu tượng văn hóa “sừng sững” chính là những mái nhà rông, nhà dài truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong những biến chuyển của thời đại, không gian che chở các hộ gia đình và lan tỏa văn hóa cộng đồng ấy khó tránh khỏi những hư hao, nghiêng ngả.

null