Ngôn ngữ điêu khắc trong hình tượng bò thần Nandi ở Khu di tích khảo cổ Cát Tiên

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Trước hết, nghệ nhân xưa đã tạo tác tượng bò thần Nandi (tên gọi khác là Nadin) nhằm mục đích phục vụ niềm tin tôn giáo, sau nữa để biểu đạt quan điểm thẩm mỹ.

khaoco.jpg
Tượng bò thần Nandi được phát hiện tại Khu di tích khảo cổ Cát Tiên.

Tín niệm của Ấn Độ giáo - một tôn giáo phiếm thần xen lẫn đa thần, xuất hiện vào cuối thế kỷ đầu thiên niên kỷ I trước Công nguyên, bảo rằng: Nandi chính là vật cưỡi của thần Shiva (đấng hủy diệt), cùng với Vishnu (đấng bảo tồn) và Brahma (đấng sáng tạo), 3 vị thần tối cao trong Ấn Độ giáo. Nandi còn là thị giả của thần Shiva, đồng thời là vị thần bảo hộ Kailash - nơi ở của thần Shiva.

Trong hầu hết các đền tháp thờ thần Shiva đều có những bức tượng bò thần Nandi. Bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ nơi ở của thần Shiva, Nandi còn có chức năng đưa linh hồn người chết qua sông, giữ gìn linh hồn người quá cố trong suốt quá trình đi lên thiên đàng để hòa nhập vào đại linh hồn vĩ đại của thế giới cực lạc.

Bò thần Nandi cũng được tín đồ Ấn Độ giáo xem như vị phúc thần, mang lại may mắn, sự giàu có và bình an. Tại Khu di tích khảo cổ Cát Tiên - một quần thể liên lập các phế tích kiến trúc đền tháp và mộ tháp mang nhiều yếu tố văn hóa Ấn Độ giáo, qua những lần khai quật, từ năm 1994 đến năm 2006, các nhà khảo cổ đã tìm thấy ở đây nhiều tiếu tượng có chạm khắc hình ảnh Nandi. Năm 2022, các nhà khảo cổ thuộc Trung tâm Khảo cổ học - Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ lại bất ngờ phát hiện một tượng bò thần Nandi tại phế tích kiến trúc gò số 4.

2khaoco.jpg
Tiếu tượng chạm khắc hình ảnh bò thần Nandi được phát hiện tại Khu di tích khảo cổ Cát Tiên.

Bằng chất liệu đá nguyên khối, nghệ nhân xưa đã tả chất Nandi trong tư thế nằm phục, dáng vẻ thoải mái, tự nhiên. Thân tượng dài 34,5 cm, cao 16,5 cm, ngang 11 cm. Tượng nổi bật với chiếc u bò nổi cao, phần trán nhô khỏi phần đầu, cao hơn hẳn vành tai. Mắt, miệng, mũi... của bò thần Nandi được nghệ nhân xưa khắc chìm, lộ vẻ nghỉ ngơi, thư thả. Đuôi thì tạc ngoặt sang bên trái, lưng tròn lẳn, căng tràn sức mạnh. Tượng Nandi tại Khu di tích khảo cổ Cát Tiên không thể hiện chi tiết cặp sừng và chi tiết con mắt thứ 3 ở giữa trán.

Qua những gì nghệ nhân xưa đã thể hiện bằng ngôn ngữ điêu khắc, các nhà khảo cổ cho rằng, đây là một chú bê, chưa phải là một con bò mộng Nandi trưởng thành. Trước đó, các nhà khảo cổ cũng đã tìm thấy nhiều tiếu tượng chạm khắc hình ảnh bò thần Nandi tại Khu di tích khảo cổ Cát Tiên. Cụ thể, tại gò 1A, các nhà khảo cổ phát hiện 1 cặp tiếu tượng khắc chạm hình ảnh của Nandi và 1 tiếu tượng chạm khắc hình ảnh của bò thần Nandi ở gò số 4.

Một điều dễ nhận thấy ở các tiếu tượng này, là kích thước tiếu tượng nhỏ, việc tạo hình Nandi khá cứng, thô. Các chi tiết cần tới độ tinh xảo thì thiếu hẳn sự tinh tế, nhất là chi tiết con mắt thứ 3 của Nandi tạc chưa thật rõ ràng.

Bên cạnh đó, những chi tiết như: u, ngấn cổ, mắt, tai, sừng, móng... của bò thần Nandi cũng chưa được nghệ nhân đi sâu đặc tả. Thêm nữa, việc tạc các bó cơ của Nandi khá cứng, sự chuyển động không linh hoạt, mềm mại. Chưa kể, chất liệu dùng để chạm khắc bò thần Nandi cũng không phải là loại vàng tốt nhất.

Từ những phân tích ở trên, các nhà khảo cổ nhận định, rất có thể đây là một đặc tính địa phương của Cát Tiên: tạo hình đơn giản, thiếu độ tinh tế trong các tạo hình chi tiết. “Có vẻ như chúng đều được tạo bởi một nhóm thợ địa phương không đề cao tính thẩm mỹ”, các nhà khảo cổ đưa ra giả thiết. Nhiều nhà khoa học còn hi vọng, đặc tính địa phương này là một hướng mở để mở bí ẩn chủ nhân của Khu di tích khảo cổ Cát Tiên là ai?!

Theo TRIỀU KA (LĐ online)

Có thể bạn quan tâm

Dùng mặt nạ kỹ thuật số để phục hồi tranh. (Ảnh: Franetic)

Công nghệ đột phá phục chế tranh cổ chỉ trong vài giờ

(GLO)-Với những bức tranh có niên đại hàng thế kỷ, bị hỏng nặng, việc phục chế gặp nhiều rủi ro và tiêu tốn thời gian. Một bước đột phá về công nghệ vừa được các nhà khoa học thử nghiệm thành công, đã giải quyết được khó khăn này, đó là phương pháp mặt nạ kỹ thuật số.

Đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi

(GLO)- Người Tây Nguyên làm du lịch không chỉ bằng khu nghỉ dưỡng, mà còn bằng lòng hiếu khách và nghệ thuật kể chuyện. Vậy nên, đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi mà hãy đánh thức nó bằng chính giọng nói của rừng, bằng bàn tay của bà con và bằng tình yêu với buôn làng của mình.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Nhắc đến đại ngàn Tây Nguyên, có lẽ biểu tượng văn hóa “sừng sững” chính là những mái nhà rông, nhà dài truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong những biến chuyển của thời đại, không gian che chở các hộ gia đình và lan tỏa văn hóa cộng đồng ấy khó tránh khỏi những hư hao, nghiêng ngả.

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

(GLO)- Người Bahnar quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự hiện diện của thần linh và con người phải tôn trọng, thờ cúng. Vì vậy, họ có nếp sống, sinh hoạt văn hóa với hệ thống lễ hội vô cùng phong phú, gắn với vòng đời người và chu kỳ canh tác nông nghiệp.

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

(GLO)- Ông Rmah Aleo (làng Pan, xã Dun, huyện Chư Sê) và ông Ayó (làng Piơm, thị trấn Đak Đoa, huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai) là những người “giữ lửa” và lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc đến cộng đồng buôn làng.

null