Kỳ 3: Thủy điện "bức tử" các dòng sông

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Việc xây dựng ồ ạt và dày đặc nhà máy thủy điện trên các dòng sông ở Tây Nguyên đã kéo theo nhiều hệ lụy về môi trường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người dân. Không những làm thay đổi dòng chảy và hệ sinh thái sông, những “công trình thế kỷ” này còn khiến Tây Nguyên ngày càng trở nên khô khát.  


Từ một dòng sông “chết”…
 

Kỳ 3: Thủy điện "bức tử" các dòng sông ảnh 1

Thủy điện An Khê-Ka Nak đã “bức tử” sông Ba thành “sông chết”. Ảnh: M.T

 

Giữa tháng 9-2010, thủy điện An Khê-Ka Nak (nằm ở thượng nguồn sông Ba, tỉnh Gia Lai) bắt đầu chặn dòng tích nước, chuyển nước từ lưu vực sông Ba sang sông Kôn (tỉnh Bình Định). Cũng từ đó, vùng hạ du sông Ba đoạn chảy qua các huyện, thị xã ở Gia Lai gồm: An Khê, Kông Chro, Ayun Pa, Krông Pa… và cả tỉnh Phú Yên thường xuyên khô cạn. Một con sông dồi dào nước với hệ sinh thái đa dạng bỗng chốc biến thành “sông chết”, kéo theo hàng ngàn hộ dân thiếu nước sinh hoạt, nhiều diện tích nông nghiệp “khát” nước tưới, sinh kế của bà con bị ảnh hưởng nặng nề. Món đặc sản “cá đá sông Ba” tại các địa phương này cũng dần trở nên hiếm hoi rồi… mất hẳn.

Bà Trần Thị Tân (thôn An Quý, xã Phú An, huyện Đak Pơ) lắc đầu ngán ngẩm: “Nói đến là thấy buồn. Nông dân chúng tôi ở đây trồng ớt, la-ghim nhờ vào nguồn nước sông là chính. Ngày trước bơm tưới thoải mái, chẳng lo thiếu nước, mấy năm nay thì phải tranh nhau mà hút nước tưới để cứu cây trồng, nhất là trong mùa hạn”.

 
Tiến sĩ Đào Trọng Tứ-Giám đốc Trung tâm Tư vấn Phát triển bền vững tài nguyên nước và Thích nghi biến đổi khí hậu (Cewarec) đã đưa ra những con số đáng báo động. Theo đó, chỉ riêng 25 công trình thủy điện lớn tại Tây Nguyên đã chiếm dụng 68.195 ha đất, ảnh hưởng đến 25.712 hộ dân (trong đó có 6.875 hộ phải di dời). Các tỉnh Tây Nguyên cũng đã chuyển đổi trên 80.000 ha đất các loại (đất nông nghiệp, đất rừng…) cho thủy điện. Và đến thời điểm hiện tại, cái giá phải trả cho việc đánh đổi lợi ích kinh tế với sự mất mát về môi trường có thể nói là quá đắt.

Không chỉ thế, thủy điện An Khê-Ka Nak cũng gây ảnh hưởng đến hoạt động của Nhà máy nước An Khê và chất lượng nguồn nước sinh hoạt phục vụ cho nhân dân tại địa phương. Khi thủy điện này bắt đầu chặn dòng, nước trên sông Ba hạ thấp 0,5-0,7 mét làm cho khu vực lấy nước tại trạm bơm xuống thấp đến mức báo động. Đồng thời, nước chuyển sang trạng thái tù đọng khiến chất lượng nước không còn đảm bảo, độ đục cao hơn gấp nhiều lần so với tiêu chuẩn cho phép.

Ông Nguyễn Văn Thi-nguyên Phó Trưởng ban Quản lý Nhà máy nước An Khê, nay là nhân viên của Công ty cổ phần Nước Sài Gòn-An Khê cho biết: “Tiêu chuẩn nước sạch quy định độ đục của nước nhỏ hơn 5 NTU (đơn vị đo chỉ tiêu độ đục-P.V) trong khi giới hạn tối đa của nước uống chỉ được 2 NTU. Thế nhưng độ đục của nước sông Ba lấy lên trong những ngày nắng đã dao động từ 30 NTU đến 70 NTU, còn mùa mưa thì độ đục tăng vọt lên 500 NTU đến 540 NTU, gấp 270 lần so với mức quy định. Hiện Nhà máy chỉ có máy đo độ đục với mức tối đa là 200 NTU, mỗi lần đo đều bị đứng máy, không thể nào đo được do độ đục quá cao, phải nhờ đến thiết bị của đơn vị khác”.
 

Giáo sư-Tiến sĩ khoa học Đặng Trung Thuận-Chủ tịch Hội Địa hóa Việt Nam: Vấn đề đáng bàn ở đây là cả 4 con sông lớn ở Tây Nguyên đều hiện diện các công trình thủy điện tích nước chuyển dòng chảy. Cụ thể: trên sông Sê San, Thủy điện Đak Đrinh (Kon Tum) không trả nước về dòng chính mà trả về sông Trà Khúc (tỉnh Quảng Ngãi). Thủy điện An Khê-Ka Nak trên sông Ba (Gia Lai) chuyển nước sang sông Kôn (tỉnh Bình Định). Thủy điện Đa Nhim, Đại Ninh (Lâm Đồng) thuộc lưu vực sông Đồng Nai chuyển nước xuống lưu vực sông Cái (tỉnh Ninh Thuận) và sông Lũy (tỉnh Bình Thuận).

Theo ông Thi, nguyên nhân khiến cho độ đục trong nước tăng cao, ngoài tình trạng nước tù đọng, còn là do thủy điện chỉ xả nước ở đáy hồ chứ không xả nước mặt nhằm để tránh sự bồi lấp lòng hồ theo thời gian. Khi mưa đầu nguồn đổ về sẽ kéo theo một lượng bùn non khá lớn. Số bùn này đọng dưới đáy hồ và theo lượng nước xả đổ ra lại hạ du sông Ba-nơi Nhà máy lấy nước.  Để đảm bảo có được một nguồn nước sạch đúng tiêu chuẩn phục vụ cho nhân dân tại khu vực trung tâm thị xã, Nhà máy nước An Khê đã phải tăng gấp 3 lần lượng hóa chất xử lý. Chi phí đầu vào, thời gian làm việc tăng lên, trong khi giá nước vẫn giữ nguyên và khối lượng nước đầu ra lại giảm đáng kể. Công suất hoạt động của Nhà máy cũng phải giảm đi 30%, bởi nếu bơm đúng công suất thì với độ bẩn cao như thế không thể xử lý kịp.

Lượng nước cung cấp cho dân cũng ít đi nên một số khu vực điểm cuối đường ống bị thiếu hụt nước sinh hoạt trầm trọng. Ông Bùi Vĩnh Thạnh (tổ dân phố 4, phường An Bình, thị xã An Khê) cho hay: “Trước kia xài nước máy khỏe lắm, không lo gì cả. Nhưng mấy năm trở lại đây, nước yếu, bơm không lên được, có khi còn bị ô nhiễm. Chúng tôi thấy nản quá nên mới đào, khoan giếng để lấy nước sinh hoạt”.

Chính vì những hệ lụy khôn lường kể trên, cuối tháng 3-2016, sau khi kiểm tra vùng hạ du thủy điện An Khê-Ka Nak, ông Trần Việt Hùng-nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã đề nghị Chính phủ dừng hoạt động của thủy điện này, trả nước lại cho sông Ba. Ngay sau đó, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã có công văn yêu cầu Bộ Công thương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam báo cáo về tình hình xây dựng, vận hành hồ chứa thủy điện An Khê-Ka Nak; đồng thời đề xuất giải pháp để bảo đảm nguồn nước phục vụ cuộc sống nhân dân vùng hạ lưu sông Ba (thuộc 2 tỉnh Gia Lai và Phú Yên).

Những dòng sông “không trôi”

 

Dù đang giữa mùa mưa nhưng sông Ba đoạn chảy qua huyện Krông Pa cạn kiệt nước. Ảnh: M.T
Dù đang giữa mùa mưa nhưng sông Ba đoạn chảy qua huyện Krông Pa cạn kiệt nước. Ảnh: M.T

Tiến sĩ Đào Trọng Tứ-Giám đốc Trung tâm Tư vấn Phát triển bền vững tài nguyên nước và Thích nghi biến đổi khí hậu (Cewarec) đã đưa ra những con số đáng báo động. Theo đó, chỉ riêng 25 công trình thủy điện lớn tại Tây Nguyên đã chiếm dụng 68.195 ha đất, ảnh hưởng đến 25.712 hộ dân (trong đó có 6.875 hộ phải di dời). Các tỉnh Tây Nguyên cũng đã chuyển đổi trên 80.000 ha đất các loại (đất nông nghiệp, đất rừng…) cho thủy điện. Và đến thời điểm hiện tại, cái giá phải trả cho việc đánh đổi lợi ích kinh tế với sự mất mát về môi trường có thể nói là quá đắt. Không chỉ có mỗi sông Ba bị “bức tử”, những thủy điện được xây dựng đã chia cắt và làm vỡ vụn các dòng sông thuộc hệ thống sông Tây Nguyên, biến chúng trở thành hệ sinh thái hồ đập với dòng chảy lững lờ.
 

 

Tiến sĩ Đào Trọng Tứ nhận định: Sông Sêrêpốk, Sê San, Đồng Nai có tài nguyên nước dồi dào, địa hình và địa chất thuận lợi nên bị cuốn theo “cơn sốt” thủy điện là điều không thể tránh khỏi. Đến năm 2015, toàn vùng đã có gần 190 công trình thủy điện lớn, nhỏ đã và đang được xây dựng trên tất cả các sông suối Tây Nguyên với tổng công suất thiết kế lên đến 7.923 MW. Trong đó, trên sông Sêrêpốk có đến 7 nhà máy thủy điện lớn và hàng chục công trình thủy điện nhỏ trên các dòng nhánh; sông Sê San hiện hữu 7 công trình thủy điện lớn đang vận hành cùng ít nhất 238 đập dâng, hồ chứa nhỏ và vừa được xây dựng trên phần thượng lưu; sông Đồng Nai cũng có đến 9 thủy điện lớn và sông Ba với 4 nhà máy thủy điện.
 

 

Theo tính toán của Giáo sư-Tiến sĩ khoa học Đặng Trung Thuận-Chủ tịch Hội Địa hóa Việt Nam, các thủy điện trên đã chuyển nước từ Tây Nguyên về miền Trung với khối lượng lớn 130 m3/s, khiến Tây Nguyên mất khoảng 2,9 tỷ m3/năm, gây thiếu hụt nước và nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng ở khu vực hạ lưu các hồ chứa nước vào mùa khô.

Minh Triều-Hồng Thi

Có thể bạn quan tâm

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

null