Giữ nghề làm khèn như giữ hơi thở

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Trong gian nhà bằng gỗ pơ mu giữa thôn Tả Cồ Ván, tiếng khèn H’Mông của nghệ nhân Mua Sính Pó lại vang lên như gọi cả núi rừng thức giấc. Ở tuổi 75, bàn tay ông vẫn rắn rỏi giữ nhịp dao, gọt những ống trúc già thành từng thanh âm của núi, âm sắc của bản làng.

Giữa những sườn đá tai mèo xám lạnh và lớp mây trắng bảng lảng trôi ngang trời Hố Quáng Phìn (huyện Đồng Văn, Hà Giang), tiếng khèn H’Mông vẫn vọng lên - khi rộn rã như suối chảy, lúc trầm sâu như tiếng núi vọng về. Trong âm thanh ấy là linh hồn của người H’Mông - những con người bền bỉ sống trên đá, dựng bản dưới trời cao, nỗ lực gìn giữ bản sắc của mình.

52-6270-2700.jpg
Nghe kể chuyện khèn bên bếp lửa.

Một thời khèn làm xong gác vào xó bếp

Nghệ nhân Mua Sính Pó (sinh năm 1950) cùng nhiều nghệ nhân khác như ông Giàng Dũng Sò (sinh năm 1951), ông Lầu Sính Dia (sinh năm 1959) là những người cao tuổi nhất ở xã Hố Quáng Phìn hiện giờ còn đang giữ nghề chế tác khèn H’Mông. Từ khi 12 - 13 tuổi, những “trai H’Mông” trẻ đã được cha truyền cho bộ dao, cái đục và bí quyết chọn trúc, nghe âm, gắn đồng. Cây khèn H’Mông nhìn đơn sơ chỉ làm từ mấy thanh trúc già, gỗ thông đá, lưỡi đồng đỏ, nhưng để thành hình phải qua hàng chục công đoạn. “Khèn đúng chất là phải trầm như đá, réo rắt như gió, ngân như núi vọng. Làm không khéo, khèn chỉ còn là đồ trang trí, treo trên tường cho đẹp”, ông Mua Sính Pó nói rồi đưa khèn lên thử tiếng.

Cây khèn đi theo người H’Mông từ khi lọt lòng đến lúc về với tổ tiên. Vì thế, đàn ông H’Mông từ nhỏ đã phải biết thổi khèn, múa khèn. Nhưng để làm ra một cây khèn hay thì không phải ai cũng làm được. Ông Pó chậm rãi kể: “Có một thời, tiếng khèn thưa vắng. Trai trẻ không mặn mà với việc học múa, học thổi. Người ta cũng không mua khèn nhiều như trước. Nhiều người trong bản gác dao, bỏ đục”.

Nghề làm khèn mai một vào giai đoạn 2010 - 2015, khi làn sóng đô thị hóa cùng cuộc mưu sinh khắc nghiệt đẩy lớp trẻ rời bản, còn những đôi tay tạc khèn gạo cội thì dần xế bóng. Làng nghề xuống dốc nhưng chưa kịp có cơ chế bảo tồn bài bản, lâu dài. Hệ quả là số lượng người biết làm khèn giảm sút báo động, có thời điểm cả làng chỉ còn 2, 3 người lay lay lắt giữ nghề.

Chủ tịch UBND xã Hố Quáng Phìn, anh Vàng Mí Và, chia sẻ: “Sự mai một của nghề bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Ngoài việc đầu ra chững lại, thì nguyên liệu làm khèn là trúc, gỗ thông cũng là vấn đề lớn. Chúng tôi phải mua nguyên liệu tỉnh khác về, dẫn đến chi phí sản xuất tăng cao. Trong khi đó, giá bán mỗi cây khèn chỉ từ 400.000 đến 500.000 đồng, quá thấp so với công sức và thời gian bỏ ra, khiến nhiều người không thể duy trì nghề”. Từng là niềm tự hào, nhưng khi ấy nghề làm khèn không còn là chỗ dựa về kinh tế cho bà con nữa.

Bắt đá cất lời khèn

Trong quãng thời gian khó khăn đó, những nghệ nhân lớn tuổi như ông Mua Sính Pó, ông Giàng Dũng Sò, ông Lầu Sính Dia cùng một số nghệ nhân khác vẫn bền bỉ làm khèn. Để bảo đảm nguồn nguyên liệu, nhiều hộ dân đã tự khai hoang, cải tạo đất trên những triền núi đá để trồng trúc. Nghệ nhân Giàng Dũng Sò cho biết: “Cây trúc ở cao nguyên đá tuy chậm lớn hơn những vùng khác nhưng thân dày chắc, rất hợp để làm khèn. Có trúc mới làm được khèn”.

Ông Lầu Sính Dia thì tâm niệm: “Làm khèn ngoài việc để có thêm thu nhập nuôi sống gia đình thì còn để cho thế hệ trẻ người H’Mông biết mình là ai”. Mỗi chiều, tiếng khèn vẫn vang lên từ nhà ông Pó, ông Sò, ông Dia. Lũ trẻ ngồi vây quanh, học thổi từng làn hơi đầu tiên. Sau đó tập cầm dao, cầm đục làm ra những chiếc khèn cho chính mình. “Dạy cho tụi nhỏ làm được một cây khèn không dễ. Nhưng dạy chúng yêu khèn, hiểu vì sao phải giữ, thì mới lâu bền. Tôi không lấy tiền, chỉ cần chúng nó đừng quên”, ông Dia nói.

Đầu ra sản phẩm từng là nút thắt khiến nhiều hộ làm khèn chùn bước. Để tháo gỡ, nhiều người liên kết thành các nhóm thợ, cùng nhau chia sẻ kỹ thuật, mang sản phẩm xuống chợ phiên giới thiệu, kết nối thị trường. Năm 2014, thôn Tả Cồ Ván được công nhận là làng nghề truyền thống chế tác khèn H’Mông - dấu mốc mở ra hướng đi mới. Các chính sách hỗ trợ từ tỉnh và xã dần được triển khai như: Cung cấp dụng cụ, vốn vay ưu đãi, tập huấn kỹ thuật, xúc tiến quảng bá.

Làng nghề khởi sắc. Các thế hệ thợ trẻ dần trưởng thành. Mua Mí Nô (sinh năm 2000), là một trong những thợ trẻ làm việc chăm chỉ. Có tháng Nô làm được 10 - 12 cây khèn, thu nhập gần 30 triệu đồng - con số từng là giấc mơ ở mảnh đất quanh năm nghèo khó.

Khèn H’Mông từ làng bản ra thế giới

Không chỉ hồi sinh trong cộng đồng, khèn H’Mông đang từng bước vượt ra khỏi bản làng, bước vào đời sống hiện đại. Để phát huy tốt danh hiệu Công viên Địa chất toàn cầu do UNESCO công nhận vào năm 2010, tỉnh Hà Giang đã chú trọng phát triển du lịch gắn liền với văn hóa dân tộc, trong đó có văn hóa H’Mông và cây khèn.

Bà Triệu Thị Tình, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Giang cho biết: “Tiếng khèn giờ đây đã trở thành một điểm nhấn đặc sắc tại các lễ hội truyền thống của người H’Mông, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước”. Các tour du lịch trải nghiệm được đưa vào khai thác, mang đến cho du khách cơ hội tự tay học làm khèn, lắng nghe những màn trình diễn khèn độc đáo. Sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa truyền thống và du lịch đã tạo nên một sức hút mạnh mẽ cho du lịch Hà Giang.

Giờ đây, về Hố Quáng Phìn, không khó để bắt gặp hình ảnh những người đàn ông H’Mông vui vẻ chế tác khèn. Âm thanh làng nghề rộn rã trở lại, đưa cây khèn đi đến khắp các miền núi cao có người H’Mông sinh sống. Khèn không còn là vật trưng bày. Nó là niềm tự hào, là tài sản tinh thần và sinh kế của người H’Mông. Sự hồi sinh của làng nghề không chỉ là kết quả từ quyết tâm bám nghề của người H’Mông, mà còn là minh chứng cho sức mạnh của cộng đồng trong công cuộc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Hiện toàn xã Hố Quáng Phìn có 37 hộ thường xuyên làm khèn, mỗi tháng làm hơn 300 cây, giá bán từ 800 nghìn đồng đến 4,5 triệu đồng/cây. Sau khi trừ chi phí, nghề khèn mang lại hơn 455 triệu đồng doanh thu mỗi tháng - một con số không nhỏ với vùng đất từng đói nghèo quanh năm.

Theo Đỗ Hiên (NDO)

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

null