Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Nuôi biển với 'cuộc hẹn' chuyển đổi xanh

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Cùng với nỗ lực ứng dụng công nghệ cao, việc tiến ra vùng biển xa bờ và bảo vệ môi trường là những yếu tố quan trọng để nghề nuôi biển phát triển bền vững.

Thời gian qua, việc chuyển từ vùng nước ven bờ, với hệ sinh thái nhạy cảm và dễ chồng lấn với các hoạt động kinh tế khác, ra vùng biển xa bờ là xu hướng phổ biến tại nhiều địa phương. Đây là hoạt động tuân thủ định hướng của Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

Khu vực nuôi cá chẽm công nghệ cao ở vùng nước sâu vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa. (Ảnh TIẾN MINH)
Khu vực nuôi cá chẽm công nghệ cao ở vùng nước sâu vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa. (Ảnh TIẾN MINH)

Ứng dụng công nghệ cao và tiến ra vùng biển xa

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Phan Thanh Nghị cho biết, tỉnh dự kiến đề xuất Bộ Nông nghiệp và Môi trường báo cáo Chính phủ xem xét đưa tỉnh vào danh sách được hưởng hỗ trợ về cơ chế tín dụng đặc thù cho nuôi biển, chính sách bảo hiểm biển, nhất là đối với vùng nuôi xa bờ và mô hình ứng dụng công nghệ cao.

Hiện các địa phương ven biển trong tỉnh đã hình thành nhiều vùng nuôi biển tập trung, áp dụng mô hình nuôi công nghiệp với lồng bè hiện đại bằng nhựa HDPE phù hợp quy chuẩn về vật liệu nổi. Nhiều tổ chức/cá nhân như Hợp tác xã Thủy sản Thắng Lợi ở Vân Đồn đã tiên phong ứng dụng công nghệ lồng bè theo mô hình Na Uy vào nuôi biển bước đầu mang lại hiệu quả sản xuất ổn định, giảm rủi ro.

Một số mô hình nuôi biển kết hợp với giáo dục môi trường, như mô hình nuôi trồng thủy sản làng chài Vông Viêng, đã tạo giá trị gia tăng cho sản phẩm thủy sản và góp phần phát triển kinh tế biển xanh.

Sau khi hợp nhất với tỉnh Ninh Thuận, tỉnh Khánh Hòa mới sẽ có gần 600km bờ biển, cùng hơn 200 đảo lớn, nhỏ. Tỉnh Khánh Hòa mới được đánh giá là địa phương nắm giữ “chìa khóa” chuyển đổi xanh trong . Vừa qua, một hộ nuôi biển công nghệ cao ở huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa đã đưa 2.000 con cá chim vây vàng ra nuôi tại vùng biển Hòn Nội. Đây là dấu mốc của ngành nuôi biển, khi lần đầu tiên cả nước có hộ dân nuôi trồng thủy sản cách bờ hơn 6 hải lý.

Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Khánh Hòa cho biết, Sở và Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III đã xây dựng mô hình thí điểm nuôi biển công nghệ cao tại vùng biển hở thuộc xã Cam Lập, thành phố Cam Ranh. Mô hình chọn 10 hộ nuôi đủ điều kiện tham gia để hỗ trợ 16 lồng tròn HDPE nuôi cá biển, 12 lồng vuông HDPE nuôi tôm hùm. Các lồng nuôi được lắp đặt thiết bị camera giám sát, hệ thống định vị trên biển, cho nên có thể giám sát từ xa 24/7 trên thiết bị điện tử, rất hữu ích cho nuôi trồng thủy sản ngoài khơi. Mô hình đã được tổng kết giai đoạn đầu, đem lại hiệu quả rất tốt.

Sau thành công của mô hình thí điểm nuôi biển công nghệ cao tại vùng biển hở ở thành phố Cam Ranh, từ nay đến năm 2029, tỉnh Khánh Hòa sẽ nhân rộng khoảng 240ha nuôi biển công nghệ cao, với tổng nguồn kinh phí hơn 545 tỷ đồng, để chuyển đổi lồng nuôi truyền thống sang lồng nuôi HDPE.

Ông Nguyễn Khánh Vân ở thành phố Cam Ranh cho biết, gia đình rất yên tâm sử dụng lồng HDPE để nuôi tôm hùm xanh ngoài vùng biển hở bởi hệ thống lồng hiện đại, vững chắc. Nhờ nguồn nước ngoài khơi sạch sẽ, thông thoáng, cho nên tôm sinh trưởng rất tốt, tỷ lệ sống đạt 80%, thời gian đạt tới kích cỡ thương phẩm cũng nhanh hơn khoảng gần 2 tháng so với trước.

Với nhiều lợi thế về nuôi biển, tỉnh Phú Yên cũng đã ban hành Kế hoạch về nuôi biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đến năm 2030, Phú Yên sẽ mở rộng thêm vùng biển hở xa bờ hơn 6 hải lý với diện tích mặt nước nuôi biển 3.650ha. Tỉnh chuyển đổi ít nhất 50% số lồng, bè nuôi truyền thống theo quy hoạch sang lồng HDPE, phát triển ngành nuôi biển đạt trình độ tiên tiến với phương thức quản lý hiện đại và trở thành ngành hàng chủ lực.

Bảo vệ đại dương cho tương lai xanh

Việc phát triển kinh tế thủy sản theo hướng xanh, tuần hoàn, carbon thấp, có khả năng chống chịu cao, ưu tiên nuôi biển xa bờ, gắn với bảo tồn biển và văn hóa biển chính là cách để đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh. Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhấn mạnh, đến năm 2030 đạt cơ bản mục tiêu ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia; phục hồi diện tích rừng ngập mặn ven biển tối thiểu bằng mức năm 2000.

Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã đặt ra chỉ tiêu đến năm 2030 đạt tỷ lệ diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển trên tổng diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia từ 3-5%. Thực tế cho thấy, việc thành lập các khu bảo tồn biển, đặc biệt là với mức độ bảo vệ cao, sẽ tạo ra một kho dự trữ giúp các quần thể thủy sản có thể phục hồi và sau đó lan tỏa ra các khu vực biển khác của Việt Nam.

Nhận thức rõ điều này, ngày 16/6, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận cho biết, đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án mở rộng, thành lập mới các khu bảo tồn biển, khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, phục hồi các hệ sinh thái biển đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh. Tỉnh sẽ triển khai nhiều chương trình, đề án, dự án ưu tiên, trong đó có chương trình truyền thông nâng cao năng lực về bảo tồn, bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái biển; phục hồi hệ sinh thái rạn san hô, rừng ngập mặn bị suy thoái; điểm thả rạn nhân tạo, phục hồi, tái tạo nguồn lợi, khoanh nuôi biển gắn với du lịch sinh thái tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng ngư dân.

Hiện nay, tỉnh Bình Thuận có 2 khu bảo tồn biển là Cù Lao Câu (huyện Tuy Phong) và huyện đảo Phú Quý. Điều tra sơ bộ tại Khu bảo tồn biển đảo Phú Quý đã ghi nhận 70 loài thực vật ở cạn, 72 loài tảo biển và một khu vực san hô rộng lớn ở vùng biển ngoài khơi của đảo Phú Quý. Cù Lao Câu được các nhà khoa học nghiên cứu và đánh giá là vùng biển có các rạn san hô còn giữ độ bao phủ cao. Qua khảo sát, có hơn 225 loài san hô đã được xác định; trong đó, có nhiều loài chỉ có ở vùng biển Cù Lao Câu.

Đây cũng là nơi có rùa biển sinh sản và đặc biệt là loài trai tai tượng khổng lồ phân bố khắp khu vực này. Với những kết quả nêu trên, có thể thấy, bảo tồn biển là bước đi cần thiết, mang lại nhiều lợi ích quan trọng, góp phần bảo vệ đa dạng sinh học, duy trì nguồn lợi thủy sản, tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và thúc đẩy kinh tế biển bền vững.

Theo Lê Quân - Quang Thọ (NDO)

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

null