Khôi phục trang phục truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Sau hơn một năm sưu tầm, phục hồi, phục dựng trang phục, trang sức, dựa trên cơ sở đóng góp ý kiến của các nhà chuyên môn, nghệ nhân, già làng, huyện Nam Trà My (Quảng Nam) đã ra mắt bộ trang phục truyền thống của đồng bào 3 dân tộc chính trên địa bàn gồm: Ca Dong, Xê Đăng và M’nông.

Đây là một trong những nỗ lực của địa phương trong công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc, góp phần phát triển du lịch cộng đồng.

Trang phục của người M’Nông trong sinh hoạt hằng ngày.

Trang phục của người M’Nông trong sinh hoạt hằng ngày.

Già làng Hồ Văn Bương, một trong những nghệ nhân được huyện Nam Trà My mời tham gia sưu tầm, phục dựng và đóng góp nhiều ý kiến quý báu về trang phục, trang sức của đồng bào Ca Dong chia sẻ, trang phục người Ca Dong gồm 4 gam màu chủ yếu là đen, đỏ, vàng và trắng. Các hoa văn, họa tiết được thể hiện dọc theo mép áo, ẩn chứa trong đó ý nghĩa nhất định về nhân sinh quan, lịch sử, cội nguồn của dân tộc.

Cũng theo già làng, nghệ nhân Hồ Văn Bương, trang phục của phụ nữ Ca Dong gồm áo và váy. Áo là kiểu áo chui đầu, tay cộc. Váy của người phụ nữ Ca Dong được dệt từ những sợi bông nhiều màu sắc, chủ yếu là đỏ, vàng, trắng. Thiếu nữ Ca Dong rất thích đeo chuỗi cườm nhiều màu sắc ở cổ, càng đeo nhiều chuỗi cườm càng thể hiện cho sự giàu có, sung túc của gia đình.

Phụ nữ Ca Dong có chồng và lớn tuổi, ngoài đeo các chuỗi cườm, họ còn mang nhiều trang sức bằng đồng, vòng bạc ở tay, cổ tăng thêm vẻ đẹp mỗi khi tham gia lễ hội của làng. Người đàn ông Ca Dong thường đóng khố, cởi trần.

Trong các lễ hội, đàn ông Ca Dong thường quấn chéo thêm tấm vải trên ngực, nhìn như một chiến binh đang ra trận. Có thể nói trang phục là một trong những nét văn hóa của một dân tộc, màu sắc trên trang phục người Ca Dong là sự kết tinh văn hóa trong môi trường tự nhiên, xã hội riêng biệt, mang nét đẹp của sự hồn nhiên, thanh khiết, như đất, nước, núi rừng, nghệ nhân Hồ Văn Bương đúc kết.

Trang phục của người Xê Đăng trong các hoạt động lễ hội và múa cồng chiêng mừng lúa mới và trong các sinh hoạt cộng đồng.

Trang phục của người Xê Đăng trong các hoạt động lễ hội và múa cồng chiêng mừng lúa mới và trong các sinh hoạt cộng đồng.

Theo Phó trưởng Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Nam Trà My Phạm Văn Thương, trang phục của dân tộc Xê Đăng là các loại khố và áo. Áo của đàn ông là áo chui đầu tay áo được khoét sát nách. Trang phục truyền thống của phụ nữ gồm áo, váy, tấm choàng (khăn vai) và địu em bé. Thông thường, áo của phụ nữ Xê Đăng được may theo kiểu dáng cổ tròn, toàn bộ chiếc áo chỉ có hai đường khâu kín đáo ở hai bên nách.

Để tô điểm thêm, người Xê Đăng còn sử dụng các loại hình trang sức như: vòng đồng, vòng bạc trên cổ, chuỗi hạt cườm đá thắt lưng hoặc trên cổ, đặc biệt các loại trang sức cổ xưa như nanh, vuốt thú... làm nên đặc trưng sắc phục Xê Đăng. Thiếu nữ Xê Đăng đến tuổi trưởng thành thường dùng tấm choàng khoác qua người như dấu hiệu cho những chàng trai biết mình chưa xây dựng gia đình, có thể trò chuyện, tìm hiểu.

Xưa kia, nam giới Xê Đăng thường đóng khố, cởi trần. Trong các lễ hội, trang phục của đàn ông sẽ có thêm một tấm vải lớn thường quấn chéo trước ngực với nhiều hoa văn sặc sỡ. Trong cuộc sống đời thường, trang phục đàn ông Xê Đăng còn giúp con người thuận lợi trong sinh hoạt, lao động. Có thể nói rằng, trang phục truyền thống của người Xê Đăng là loại hình văn hóa dân gian tiêu biểu, phong phú, đa dạng về loại hình, sản phẩm, có giá trị thẩm mỹ với những đường nét hoa văn, sắc màu độc đáo, mang nét đặc trưng của vùng đất Nam Trà My, Phó trưởng Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Nam Trà My Phạm Văn Thương cho biết thêm.

Nếu như bộ sắc phục của đồng bào Ca Dong với 4 gam màu chủ yếu đó là đen, đỏ, vàng và trắng thì bộ trang phục truyền thống của người M’Nông có màu đen đỏ chủ yếu, hoa văn trên trang phục chủ yếu được trang trí xung quanh váy, áo.

Trang phục của con gái M’Nông gồm một chiếc váy quấn và áo được phối hợp với nhau, giúp người mặc vừa dịu dàng nhưng khỏe khoắn, nhanh nhẹn. Bộ trang phục nữ gồm áo và váy, trên váy có nhiều hoa văn đa dạng, thể hiện nét đặc trưng của đồng bào. Cùng với trang phục, phụ nữ M’Nông rất chú ý tới trang sức như, bông đeo tai bằng gỗ hoặc bằng tre, vòng cổ làm bằng đồng.

Trang phục của nam giới người M’Nông thường gồm khố và áo dài. Đối với nam giới, trang phục thường đóng khố, cởi trần, trong đó khố được làm rất kĩ lưỡng. Trong những lễ hội truyền thống, người đàn ông thường quấn chéo thêm một tấm vải trên ngực.

Chủ tịch UBND huyện Nam Trà My Trần Duy Dũng cho biết, huyện đang thực hiện Đề án "bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa đặc trưng các dân tộc huyện Nam Trà My giai đoạn 2023 - 2025 định hướng đến năm 2030". Hơn một năm qua, huyện đã sưu tầm, tổ chức nhiều cuộc hội thảo khoa học, tranh thủ tối đa ý kiến đóng góp của các nghệ nhân, già làng có uy tín trong quá trình phục dựng trang phục, trang sức của 3 dân tộc chính trên địa bàn gồm, Ca Dong, Xơ Đăng và M’nông. Đây là tiền đề để trong những năm tới Nam Trà My đẩy mạnh chương trình phục dựng trang phục của đồng bào các dân tộc trên địa bàn. Qua đó khuyến khích giới trẻ, nhất là học sinh con em đồng bào các dân tộc sử dụng thường xuyên bộ trang phục truyền thống, góp phần gìn giữ, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình trong cuộc sống hiện đại.

Có thể bạn quan tâm

Lễ cầu mưa trên đỉnh núi thần: Di sản đặc biệt

Lễ cầu mưa trên đỉnh núi thần: Di sản đặc biệt

(GLO)- Trên đời có thực sự tồn tại những con người có quyền năng hô mưa gọi gió? Chính hiện thực và truyền thuyết hư ảo đan cài vào nhau khiến lễ cầu mưa của Yang Pơtao Apui ở thung lũng Ayun Hạ trở thành một hiện tượng đặc biệt, hấp dẫn bởi sự linh thiêng, huyền bí.

Tự hào con cháu Hai Bà Trưng

Tự hào con cháu Hai Bà Trưng

(GLO)- Đền thờ Hai Bà Trưng là di tích quốc gia đặc biệt, tọa lạc tại thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, TP. Hà Nội. Đây cũng là quê hương của Hai Bà Trưng-những nữ tướng anh hùng đã nổi dậy chống quân xâm lược nhà Hán.

Nối nghề

Nối nghề

Lần đầu tiên nghệ nhân Y Pư giới thiệu nghề làm gốm thủ công tại Bảo tàng tỉnh trong khuôn khổ Tuần lễ Văn hóa - Du lịch tỉnh Kon Tum lần thứ 3 (năm 2016) đã để lại ấn tượng đẹp.

Ông Đinh Plih sắp xếp bộ cồng chiêng và các vật dụng sẵn sàng đem theo khi đi trình diễn, quảng bá văn hóa dân tộc Bahnar. Ảnh: N.M

Đinh Plih: Tự hào “vốn liếng” văn hóa Bahnar

(GLO)- “Ý nghĩa của công việc không phải chỉ nằm ở chỗ tiền bạc mà còn ở nhu cầu về tinh thần, biểu hiện của giá trị, một vốn liếng để tự hào”. Câu nói này thật đúng đối với ông Đinh Plih (xã Tơ Tung, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai). Với ông, hạnh phúc đơn giản là bản thân được sống trọn với đam mê.

Sức sống của lễ hội Tây Nguyên

Sức sống của lễ hội Tây Nguyên

(GLO)- Hoa pơ lang thắp lửa cuối khu nhà mồ làng Pyang, thị trấn Kông Chro, tỉnh Gia Lai. Nổi bật giữa lớp lớp nhà mồ cũ là 3 nhà mồ mới làm. Đó là những dấu hiệu mùa lễ hội giữa núi rừng Trường Sơn.

Lễ bỏ mả của người Bahnar ở Kông Chro

Lễ bỏ mả của người Bahnar ở Kông Chro

(GLO)- Từ 21 đến 23-2, làng Pyang (thị trấn Kông Chro, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai) tưng bừng tổ chức lễ bỏ mả-một trong những lễ hội lớn và đặc sắc nhất của người Bahnar Đông Trường Sơn

Gìn giữ giai điệu của đá

Gìn giữ giai điệu của đá

Trong dịp đầu xuân, tại chương trình trình diễn, trải nghiệm di sản văn hóa diễn ra ở Bảo tàng – Thư viện tỉnh, người dân và du khách có dịp thưởng thức những giai điệu của đá được trình diễn bởi nghệ nhân ưu tú A Thu (50 tuổi) ở thôn Đăk Rô Gia (xã Đăk Trăm, huyện Đăk Tô).

Lễ báo hiếu: Thơm thảo tấm lòng con cái

Lễ báo hiếu, thơm thảo tấm lòng con cái

(GLO)- Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, người Bahnar luôn nhắc nhau: “Phải kính trọng cha mẹ như mặt trăng, kính trọng ông bà như mặt trời”. Khi đã trưởng thành, con cái đều nghĩ đến việc tổ chức lễ báo hiếu cha mẹ (teh nhung ăn kră).

Nâng cao chất lượng các danh hiệu văn hóa ở cơ sở

Nâng cao chất lượng các danh hiệu văn hóa ở cơ sở

(GLO)- UBND tỉnh Gia Lai ban hành QĐ số 60/2024/QĐ-UBND quy định chi tiết tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Thôn, tổ dân phố văn hóa”, “Xã, phường, thị trấn tiêu biểu” để hướng dẫn thực hiện, bảo đảm phù hợp với đặc thù văn hóa và tình hình kinh tế-xã hội của địa phương.