Hai bia đá Chăm trên đất Gia Lai: Tư liệu hiếm về Tây Nguyên

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Trên đất Gia Lai ngày nay, dấu tích văn hóa Chăm nằm trong khung niên đại từ thế kỷ XIV-XV còn lại khá dày, nhưng tư liệu viết trên các chất liệu, cung cấp thông tin cụ thể về một vấn đề gì đó của vùng đất Gia Lai nói riêng, Tây Nguyên nói chung thì vô cùng hiếm. Chính vì vậy mà chúng tôi coi bia đá Drang Lai và bia đá Tư Lương cùng minh văn trên 2 bia này là nguồn sử liệu vô cùng quý giá.
Thế kỷ XIV-XV là thời kỳ cả thế và lực của vương quốc Chăm-pa đều hùng mạnh. Trong 30 năm trị vì (1360-1390), Chế Bồng Nga đã hơn 10 lần dẫn quân tiến đánh Đại Việt, nhưng mộng thôn tính quốc gia phía Bắc này đều không thành. Vì vậy, các vị vua kế vị ông ta là Jaya Simhavarman (La Khải, thời gian tại vị: 1390-1401) và Vira Bhadravarman (Ba Đích Lai, 1401-1441) chủ trương không đối đầu với Đại Việt để dồn sức chấn hưng xứ sở và mở rộng lãnh thổ lên các cao nguyên phía Tây và vùng đất phía Nam. Thế kỷ XV, dưới thời Vira Bhadravarman, vị vua này đã thành công trong việc chinh phục vùng đất thượng nguồn sông Ba, mà bằng chứng là 2 bia đá Drang Lai và Tư Lương ra đời trong giai đoạn trị vì của ông, được lập trên vùng đất nay là tỉnh Gia Lai. Hai bia đá này đã được GS. Arlo Griffiths (người Hà Lan, làm việc tại Viễn Đông Bác cổ-Pháp) cùng những đồng nghiệp của ông giải mã.
 Bản sao Bia đá Drang Lai tại Bảo tàng tỉnh Gia Lai. Ảnh: Đ.T
Bản sao Bia đá Drang Lai tại Bảo tàng tỉnh Gia Lai. Ảnh: Đ.T
Bia Drang Lai hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng, có nguồn gốc từ tháp Chăm Drang Lai, nay thuộc địa phận thị xã Ayun Pa (tỉnh Gia Lai). Đáp ứng nguyện vọng của các nhà nghiên cứu và du khách, bản sao tỷ lệ 1/1 của bia đá Drang Lai đã được các đồng nghiệp ở Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng giúp thực hiện và trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Gia Lai từ năm 2017. Khi được người Pháp phát hiện (đầu thế kỷ XX), Ayun Pa còn là một đơn vị hành chính có tên là Cheo Reo, thuộc tỉnh Phú Yên, vì vậy mà bi ký (văn bia) Drang Lai còn được một số nhà nghiên cứu người Pháp gọi là “Văn khắc Cheo Reo” hay “bi ký Yang Mum”-tên một ngôi đền tháp Chăm ở gần đó, nơi mà nó được chuyển đến sau khi phát hiện. Niên đại của nó được GS. Arlo Griffiths xác định là không sớm hơn năm 1435 sau Công nguyên.
Bia được làm từ sa thạch, có dạng cột, khối gần chữ nhật, dựng đứng, có chân đế dời. Thân bia thon dần về phía chân đế. Kích thước đo được là 129 cm (tính cả phần nhô lên) x 30/38 (chiều rộng cực tiểu/cực đại) x 18,5 cm (bề dày).
Ngôn ngữ thể hiện trên bia là tiếng Chăm cổ. Nội dung bi ký đã được GS. Arlo Griffiths dịch toàn văn. Do dung lượng bài viết có hạn, xin tóm tắt đoạn đầu như sau:
“Vào năm 1337 niên lịch Saka (năm 1415 sau công nguyên), sau cái chết của vua Jayasimhavarman, hoàng tử Vira Bhadravarman, con của Ngài, chúa tể của vùng Naul Glaun Vijaya lên kế vị ngai vàng của vương quốc. Sau nhiều trận chiến do vua Việt Nam tiến hành nhằm vào đất nước Chăm-pa, vua Vira Bhadravarman đã tấn công Đại Việt ở một thời điểm chưa được xác định rõ. Ngài bắt được một công chúa Việt, nhiều nô lệ, súc vật và của cải của vương quốc Việt Nam trước khi rút về Vijayãpurĩ, nơi đóng đô ưa thích nhất của Ngài”.
Như vậy là đến thế kỷ XV, khu vực thung lũng Cheo Reo của người Jrai đã trở thành linh địa Bhagit của Chăm-pa. Tuy nhiên, để có cơ sở cho việc xây dựng linh địa này, chắc chắn từ rất lâu trước đó đã có sự qua lại, giao thương giữa người Chăm với các thị tộc ở đây.
Còn bia Tư Lương nằm trên một gò đất cao, quay mặt về hướng Đông, thuộc  thôn Tư Lương (xã Tân An, huyện Đak Pơ). Hòn đá với những nét vẽ loằng ngoằng, lạ mắt này đã được những người dân địa phương biết đến từ đầu thập niên 60 của thế kỷ trước; và được Th.S Nguyễn Quang Tuệ công bố lần đầu vào năm 2010. Minh văn trên bia Tư Lương là tiếng Chăm cổ, được khắc trên một khối sa thạch, cao khoảng 1,7 m (chỉ tính phần nhô lên khỏi mặt đất); chiều ngang chỗ lớn nhất rộng khoảng 1,5 m; mặt trước có khắc 8 dòng chữ Chăm cổ, mặt sau khắc 3 dòng. Chữ khắc hầu hết đã bị mờ, mất nét.
Theo nhà nghiên cứu Chăm-pa Trần Kỳ Phương, nội dung minh văn Tư Lương đề cập đến việc vua Vira Bhadravarman, con trai của vua Jaya Simhavarman trị vì vùng Vijaya (Bình Định ngày nay), ngài đã dựng một ngôi đền và tấm văn khắc tại đây (thung lũng An Khê?) vào năm 1438; ngoài ra, ngài cũng cho xây dựng đường sá và đập nước trên sông Hayav (sông Ba?). Bia Tư Lương đã được GS. Arlo Griffiths cùng các đồng nghiệp của ông khảo sát kỹ lưỡng năm 2018; hy vọng một ngày gần đây, những bí ẩn về văn bia này sẽ được mở ra.
Hai minh văn trên đá trên quả là những hiện vật vô cùng quý giá với Gia Lai. Đó là những chiếc chìa khóa hết sức quan trọng, giúp các nhà nghiên cứu lịch sử-văn hóa Tây Nguyên gõ vào cánh cửa huyền bí, hé lộ những bí ẩn của một thời kỳ xa xưa, khi mà tất cả các dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên còn chưa có chữ viết.
 NGUYỄN THỊ KIM VÂN

Có thể bạn quan tâm

Những người giữ hồn dân ca Jrai

Những người giữ hồn dân ca Jrai

(GLO)- Nhằm bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa của dân tộc Jrai, nhiều nghệ nhân ở xã Ia Rbol (thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai) từng ngày âm thầm lưu giữ những làn điệu dân ca như một cách thể hiện tình yêu với cội nguồn.

Lưu giữ “men say” của đại ngàn

Lưu giữ “men say” của đại ngàn

(GLO)- Hiện nay, nhiều gia đình người dân tộc thiểu số ở Gia Lai vẫn giữ nghề ủ rượu cần truyền thống từ men lá tự nhiên. Theo thời gian, họ đã cùng nhau lưu giữ “men say” của đại ngàn, giúp cho thức uống mang đậm dấu ấn văn hóa của cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên được chắp cánh bay xa.

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

(GLO)- Đây là số cuối cùng của chuyên mục “Gương mặt thơ” trên báo Gia Lai Cuối tuần do tôi phụ trách.Chuyên mục đã đi được hơn 2 năm (từ tháng 10-2022), tới nay đã giới thiệu tác phẩm của hơn 100 nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn cả nước.

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

(GLO)- Rời quê vào thôn Đà Bắc (xã Ia Lâu, huyện Chư Prông) lập nghiệp đã hơn 30 năm, nhưng cộng đồng người Mường vẫn luôn duy trì và nỗ lực bảo tồn văn hóa cồng chiêng của dân tộc. Với họ, “giữ lửa” cồng chiêng chính là cách làm thiết thực nhất tạo sự gắn kết bền chặt với quê hương, nguồn cội.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản có tiềm năng khai thác kinh tế du lịch. Ảnh: Minh Châu

Những ngày làm hồ sơ “Không gian văn hóa cồng chiêng”

(GLO)- Ngày 23-3-2004, Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch) ban hành quyết định về việc xây dựng hồ sơ ứng cử quốc gia “Vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là di sản tiếp nối trình UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.

Về miền di sản

Về miền di sản

(GLO)- Những địa danh lịch sử, điểm di sản là nơi thu hút nhiều người đến tham quan, tìm hiểu. Được tận mắt chứng kiến và đặt chân lên một miền đất giàu truyền thống luôn là trải nghiệm tuyệt vời và xúc động đối với nhiều người.

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

(GLO)- Tại Kỳ họp thứ 19 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể diễn ra tại Thủ đô Asunción (Cộng hòa Paraguay) vào ngày 4-12, UNESCO đã chính thức ghi danh Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam của Việt Nam vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

(GLO)- Năm 1993, Sở Văn hóa-Thông tin (VH-TT) và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai đã ký kết chương trình phối hợp hành động với nhiều hoạt động thiết thực, trong đó có mô hình “Điểm sáng văn hóa vùng biên”.