Công trình khảo cứu đặc sắc về An Khê

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Năm 2017, Giáo sư Andrew Hardy-nguyên Trưởng đại diện Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội lần đầu đến An Khê để tham gia hội thảo về Tây Sơn Thượng đạo. Chuyến đi này đã mở ra nhiều cơ duyên giữa ông với vùng đất cửa ngõ phía Đông tỉnh Gia Lai.

Một khảo cứu đặc sắc

Với sự tinh nhạy của người nghiên cứu lịch sử Việt Nam tại Viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO), nhất là nghiên cứu về những cuộc di cư của người Việt, Giáo sư Andrew Hardy đã có những linh cảm đặc biệt về An Khê-vùng đất có vị trí vô cùng đặc biệt trong lịch sử mở cõi của người Việt.

Sách “Lịch sử khai khẩn cao nguyên An Khê, 1864-1888” của giáo sư người Pháp vừa xuất bản là công trình khảo cứu đặc sắc về quá trình khai hoang và định cư vùng An Khê trong giai đoạn triều Nguyễn (1864-1888). Cuốn sách được các nhà sử học đánh giá là công trình khoa học đầu tiên cho giai đoạn lịch sử này.

Theo Giáo sư Andrew Hardy, quá trình khai khẩn cao nguyên An Khê vào cuối thế kỷ 19 được chia làm 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu (1864-1867) do Nguyễn Đức Thăng lãnh đạo chỉ khai hoang một số ruộng, thôn.

Tuy không thành công nhưng trong tấu chương của quan lại gửi về triều đình năm 1869 có báo cáo khá chi tiết về vùng đất An Khê: “…nhân sĩ trong địa phương kể lại rằng tại hạt này từ An Khê là ấp cũ của nhà Tây Sơn ngược trở lên có một vùng đất bình nguyên hoang dã rất rộng lớn, thả tầm mắt nhìn xa hàng nghìn dặm mà không hết. Nếu bỏ sức ra khai khẩn thì có thể thành lập đất đai của một tỉnh…

Đêm ra hỏi các vị nhân sĩ hào mục thì nhiều người đều bảo chất đất ở đó rất màu mỡ, duy chỉ có điều là chướng rất nặng nề, dân cư thưa thớt, tài lực thiếu thốn nên đành chịu để thế. Nếu muốn cải tạo khai thác vùng đất ấy thì cần phải có người thành thạo công việc” (Trần Hy Tăng, Châu bản triều Nguyễn, 1869).

1-3852.jpg
Giáo sư Andrew Hardy (bìa phải) trong buổi ký tặng sách cho độc giả tại Gia Lai. Ảnh: H.N

Đợt di dân đầu tiên cũng là cơ sở cho những đợt di dân tiếp theo lên cao nguyên An Khê trong hành trình mở cõi về phương Nam. Theo khảo cứu của Giáo sư Andrew Hardy, đợt thứ hai (1870-1872) do Đặng Duy Hạnh lãnh đạo cũng không thu được kết quả như kỳ vọng.

Đến đợt di dân thứ ba (khoảng 1877-1885) do Phan Văn Điển lãnh đạo là thành công nhất. Trong giai đoạn này, đã có 854 mẫu ruộng được khai khẩn, 590 gia đình định cư trong 30 thôn. Cảnh quan cao nguyên An Khê đến đây đã thay đổi về căn bản với những cánh đồng màu mỡ, những thôn xóm tươi mới chạy dọc đôi bờ sông Ba vào đến tận chân núi.

Chia sẻ trong buổi tọa đàm, giới thiệu sách tại Bảo tàng tỉnh Gia Lai mới đây, Giáo sư Andrew Hardy cho biết: Để có được những tư liệu chính xác, khách quan, thuyết phục về bối cảnh lịch sử khai khẩn cao nguyên An Khê, ông đã dành công sức trong suốt nhiều năm cho những cuộc điều tra thực địa; trao đổi với các học giả nghiên cứu về An Khê, đặc biệt là dựa trên 50 tài liệu Châu bản triều Nguyễn mà ông tìm thấy khi “cày xới” các kho lưu trữ ở Việt Nam và Pháp.

Tìm lại lịch sử

Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Quang Ngọc-Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, người làm cầu nối cho Andrew Hardy đến với An Khê-cho biết: Châu bản triều Nguyễn là tài liệu vô cùng đặc biệt, là tập hợp công văn, giấy tờ được báo cáo với nhà vua và được đích thân vua xem xét, ngự phê bằng mực son. Đây là tài liệu nguyên gốc, độc bản, vô cùng quý giá.

“Trong nghiên cứu lịch sử, chúng tôi coi tài liệu nguyên gốc này có giá trị lịch sử cao nhất, chính xác và tin cậy nhất. Dựa vào những tài liệu nguyên bản này, tác giả Andrew Hardy có những nhận xét, đánh giá khách quan về bối cảnh lịch sử của công cuộc khai khẩn cao nguyên An Khê”-ông Ngọc chia sẻ.

bia-sach-lich-su-khai-khan-cao-nguyen-an-khe-1864-1888.jpg
Bìa sách Lịch sử khai khẩn cao nguyên An Khê, 1864-1888. Ảnh: H.N

Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Quang Ngọc cho biết ông kinh ngạc bởi số lượng Châu bản triều Nguyễn mà Andrew Hardy tìm thấy về An Khê.

“Cho đến nay, chúng tôi mới chỉ tìm thấy 18 Châu bản về Hoàng Sa, Trường Sa. Còn An Khê là một vùng đất không rộng lớn nhưng Giáo sư Andrew Hardy tìm thấy trên 50 tài liệu Châu bản. Điều đó cho thấy sự quan tâm đặc biệt của nhà nước phong kiến đối với vùng đất này.

Và do vậy, cuốn sách của Giáo sư không chỉ là công trình nghiên cứu đầu tiên về giai đoạn cuối thế kỷ XIX mà còn mở ra các vấn đề tiếp tục nghiên cứu, thảo luận về vùng đất An Khê”-ông Ngọc nói.

Về tên tuổi Phan Văn Điển, trong lời bạt cuốn sách có nhan đề “Phan Văn Điển-Tên ông đã trở về với An Khê”, Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Vân-nguyên Giám đốc Bảo tàng tỉnh Gia Lai-nhấn mạnh: “Tác giả đã hiểu ra và làm rõ một sự thật lịch sử: Trong những năm tháng ấy, áp lực của thực dân Pháp ở phía Đông, phía Nam; sự lớn mạnh của Giáo phận Kon Tum ở phía Tây… chính là những động cơ đưa Phan Văn Điển vượt qua mọi gian khổ, hy sinh để mang lại thành công cho công cuộc khai khẩn cao nguyên An Khê, củng cố một vùng biên cương phía Tây Tổ quốc.

Nhưng cùng với những biến cố lịch sử của dân tộc, cái tên Phan Văn Điển dần mờ theo thời gian. Tại đình An Lũy (An Khê trường)-nơi thờ anh em Tây Sơn và tiền hiền, hậu hiền, tên ông còn chưa được ghi. Xin đừng trách hậu thế, bởi người An Khê đã cất công đi tìm những ân nhân mở cõi của mình, nhưng có lẽ cơ duyên chưa đủ! Từ đây, tên ông đã trở về và có một vị trí xứng đáng trong lòng dân An Khê”.

Có thể bạn quan tâm

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

(GLO)- Lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui là hiện tượng văn hóa xã hội đặc sắc của cộng đồng người Jrai ở Plei Ơi, xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Nghi lễ này tập hợp nhiều biểu tượng văn hóa độc đáo giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới tâm linh của cư dân bản địa.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Nhắc đến đại ngàn Tây Nguyên, có lẽ biểu tượng văn hóa “sừng sững” chính là những mái nhà rông, nhà dài truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong những biến chuyển của thời đại, không gian che chở các hộ gia đình và lan tỏa văn hóa cộng đồng ấy khó tránh khỏi những hư hao, nghiêng ngả.

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

(GLO)- Tuy có sự phát triển của hệ thống thủy lợi song lễ cúng cầu mưa vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống cư dân vùng thung lũng Cheo Reo. Sự đa dạng trong nghi thức cúng của mỗi cộng đồng dân cư đã góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

(GLO)- Người Bahnar quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự hiện diện của thần linh và con người phải tôn trọng, thờ cúng. Vì vậy, họ có nếp sống, sinh hoạt văn hóa với hệ thống lễ hội vô cùng phong phú, gắn với vòng đời người và chu kỳ canh tác nông nghiệp.

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

(GLO)- Ông Rmah Aleo (làng Pan, xã Dun, huyện Chư Sê) và ông Ayó (làng Piơm, thị trấn Đak Đoa, huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai) là những người “giữ lửa” và lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc đến cộng đồng buôn làng.

null