Chuyện làm hồ sơ di tích Tây Sơn Thượng đạo

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, những người làm công tác di sản văn hóa (như cách gọi ngày nay) của tỉnh Gia Lai-Kon Tum bắt tay vào việc thu thập thông tin để làm hồ sơ di tích đề nghị xếp hạng, trong đó có hồ sơ di tích Tây Sơn Thượng đạo.

Sau gần 2 năm “nằm vùng” để viết Lịch sử Đảng bộ thị xã Kon Tum, năm 1988-1989, tôi được phân công cùng các anh Phan Thanh Bàng, Nguyễn Xuân Hóa… làm một loạt hồ sơ di tích, trong đó có Quần thể di tích Tây Sơn Thượng đạo. Ở thời điểm này, trong đầu chúng tôi, từ khóa “Tây Sơn Thượng đạo” còn trắng như tờ giấy mới.

Những ngày đầu bắt tay vào công việc này, ở Gia Lai-Kon Tum, về chuyên môn, chỉ có anh Bàng là cử nhân ngành Bảo tồn-Bảo tàng, còn tôi và anh Hóa, tuy có bằng cử nhân, nhưng đều “trắng” chuyên môn về nghiệp vụ hồ sơ di tích.

Biết điểm yếu của mình, tôi vào thư viện để tìm đọc tài liệu liên quan, đồng thời mượn bộ giáo trình Bảo tồn-Bảo tàng của Trường Đại học Văn hóa Hà Nội mà anh Bàng đang lưu giữ và coi nó như bảo bối… về để đọc, học. Hồi ấy, tài liệu, sách công cụ không có sẵn nên cũng phải quý mến nhau lắm thì người có sách mới cho mượn; văn bản hướng dẫn của ngành dọc hầu như không có gì.

db1742f114ae093e9b79c62dccd8a8d9.jpg
Khu di tích Tây Sơn Thượng đạo là di tích quốc gia đặc biệt. Ảnh: Ngọc Minh

Nhưng rồi, cứ “vừng ơi” và gõ mãi thì cửa cũng thương tình mà mở. Tại Thư viện tỉnh, tôi tìm được quyển “Tư liệu về Tây Sơn-Nguyễn Huệ, tập 1: Trên đất Nghĩa Bình”, do Sở Văn hóa-Thông tin tỉnh Nghĩa Bình xuất bản năm 1988 với nhiều bài viết, tư liệu mới về phong trào Tây Sơn trên đất Nghĩa Bình (bao gồm cả vùng Thượng đạo, lúc đó thuộc tỉnh Gia Lai-Kon Tum), tôi mừng không sao tả xiết.

Có tài liệu đáng tin cậy, chúng tôi xuống An Khê để bắt tay vào việc. Cùng với tôi và anh Bàng, Phòng Văn hóa-Thông tin huyện An Khê cử chị Vị (cán bộ trung cấp Bảo tàng) và anh Lợi (nhiếp ảnh) hỗ trợ cả về chuyên môn và đường đi nước bước. Để có được bộ hồ sơ di tích mà nay một số bạn trẻ nhìn vào đánh giá là sơ sài, ngoài tư liệu thành văn, chúng tôi mất gần 2 năm khảo sát thực địa.

Lấy Phòng Văn hóa-Thông tin An Khê làm nơi trở về sau mỗi chuyến đi, điểm đến của chúng tôi là gần như toàn bộ các xã người Kinh của huyện An Khê ngày ấy, mà trọng tâm là khu vực Xóm Lũy (thị trấn) và các xã Cửu An, Song An (huyện An Khê); xã Yang Nam (huyện Kông Chro), xã Nghĩa An (huyện Kbang). Trong điều kiện giao thông cuối thập niên 80, phương tiện để di chuyển chính của chúng tôi chỉ là đôi chân, thỉnh thoảng mới có xe đạp mượn của anh em ở huyện.

Có lẽ nhờ nhiệt huyết của tuổi trẻ cộng với khao khát công việc mình làm sẽ có kết quả, cùng sự nhiệt tình giúp đỡ của chính quyền địa phương, của nhân chứng… mà chúng tôi vượt qua được những chặng đường hàng chục km trơn trượt, lầy bùn hoặc lầm bụi. Mỗi dòng tư liệu ghi chép được lại như tiếp thêm cho chúng tôi nguồn năng lượng mới để bước tiếp. Đến nay, những câu chuyện do ông Bùi Tấn Tòng (lúc ấy 74 tuổi, ở thôn An Lũy), bok Jơt (lúc ấy gần 100 tuổi, ở làng Stơr) kể… đã trở thành những tư liệu không bao giờ còn có thể tìm lại.

Những chỉ dẫn, mẩu chuyện từ các bô lão đã giúp chúng tôi hoàn thành các báo cáo, hồ sơ khảo sát… theo yêu cầu của một hồ sơ di tích cấp quốc gia. Từ nhiều chục điểm khảo sát kết hợp tư liệu thành văn, với tư liệu điền dã; tích cực đào bới để tìm kiếm những dấu tích còn được lưu giữ tại chỗ… cuối cùng thì bộ hồ sơ của quần thể di tích về phong trào nông dân Tây Sơn nửa cuối thế kỷ XVIII trên đất Gia Lai, với 6 cụm, gần 20 địa điểm di tích đã hoàn thành.

Đó là: những chứng tích về quá trình tập hợp lực lượng và xây dựng cơ sở hậu cần tại chỗ; những chứng tích về quá trình xây dựng đồn trại và tổ chức lực lượng khởi nghĩa; những chứng tích đánh dấu sự phát triển của nghĩa quân Tây Sơn từ rừng núi Thượng đạo xuống đồng bằng. Năm 1991, quần thể di tích này được xếp hạng cấp quốc gia và là cơ sở để năm 2021 được nâng hạng lên di tích cấp quốc gia đặc biệt.

Gần 40 năm đã qua, tôi vẫn nhớ như in cái cảm giác vào một đêm tối trời, ngồi tại đình An Lũy (di tích An Khê trường), trong ánh đèn dầu lập lòe, nghe chú Mười Chương kể lại truyền thuyết về buổi lễ khởi binh của anh em Tây Sơn diễn ra năm từ 1773, hình dung về sự xuất hiện của đoàn quân rầm rập ngựa voi… cùng câu nói mà lúc ấy, thanh niên 24 tuổi là tôi, sau khi nghe xong chợt thấy “lạnh” sống lưng: “Ngày nay, vào những đêm giông bão, ngài vẫn cưỡi voi cùng quân sĩ về tập trận ở cây đa, cây ké phía trước đình”.

Có thể bạn quan tâm

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

(GLO)- Lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui là hiện tượng văn hóa xã hội đặc sắc của cộng đồng người Jrai ở Plei Ơi, xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Nghi lễ này tập hợp nhiều biểu tượng văn hóa độc đáo giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới tâm linh của cư dân bản địa.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

(GLO)- Tuy có sự phát triển của hệ thống thủy lợi song lễ cúng cầu mưa vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống cư dân vùng thung lũng Cheo Reo. Sự đa dạng trong nghi thức cúng của mỗi cộng đồng dân cư đã góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

(GLO)- Người Bahnar quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự hiện diện của thần linh và con người phải tôn trọng, thờ cúng. Vì vậy, họ có nếp sống, sinh hoạt văn hóa với hệ thống lễ hội vô cùng phong phú, gắn với vòng đời người và chu kỳ canh tác nông nghiệp.

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

(GLO)- Ông Rmah Aleo (làng Pan, xã Dun, huyện Chư Sê) và ông Ayó (làng Piơm, thị trấn Đak Đoa, huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai) là những người “giữ lửa” và lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc đến cộng đồng buôn làng.

null