Chiêng làm bằng vỏ… thùng phuy

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Tôi ở Tây Nguyên đủ lâu để hiểu được phần nào vai trò, vị trí và giá trị của cồng chiêng trong đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số. Tôi đã hàng trăm lần tận tay cầm nắm và thưởng thức âm thanh của các loại chiêng đồng, chiêng tre. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi biết đến một loại chiêng đặc biệt: Chiêng làm bằng vỏ… thùng phuy!
Tôi về thăm xã Ia Rmok (huyện Krông Pa) vào những ngày cuối tháng 6. Các buôn làng Jrai ở đây đang trải qua một đợt nắng nóng dữ dội. Trong ngôi nhà nhỏ, anh Rơ Ô Nới (SN 1981, buôn Blăk) đang tỉ mẩn sửa lại từng chiếc chiêng làm bằng vỏ thùng phuy để kịp cho đội chiêng thanh niên của buôn tập luyện vào những ngày tới. Mồ hôi chảy thành dòng trên gương mặt khắc khổ của anh. Bộ chiêng sắt của anh Nới có 16 chiếc, từ nhỏ đến lớn, đều đặn như những bộ chiêng truyền thống thường thấy. Chiếc chiêng lớn nhất có đường kính gần 40 cm, nặng 1,1 kg; chiếc nhỏ nhất có đường kính chỉ 20 cm và trọng lượng vừa tròn 200 gram. Cả bộ chiêng của anh chỉ nặng hơn 10 kg, khá tiện cho việc di chuyển hoặc diễn tấu.
“Chiêng này hay hơn chiêng ông bà để lại không?”. Nghe tôi hỏi, Rơ Ô Nới liền lấy dùi gõ vào núm cái chiêng đang sửa và đáp ngay: “Chiêng sắt không “ngon” bằng chiêng đồng đâu. Vì nó mỏng nên tiếng nó không đi xa được. Nhưng thanh niên lại thích, muốn đánh lúc nào thì đánh thôi, không kiêng cữ gì”. Quả đúng là tiếng chiêng không thật trong và sức vang của âm thanh có giới hạn, song nó cũng khiến người nghe không khỏi thích thú.
Ở buôn Blăk không chỉ có anh Nới mà anh Kpă Thit (SN 1978) cũng là người có niềm đam mê chế tác chiêng từ vỏ thùng phuy. Vài năm trở lại đây, 2 người đàn ông này đã tự bỏ kinh phí và thời gian để kỳ công làm 2 bộ chiêng sắt rồi bày cho thanh niên trong buôn đánh. Để cho chiêng sắt giống với chiêng đồng, không chỉ tỉ mỉ trong gò và chỉnh sửa âm thanh, họ còn dùng sơn vàng phủ lên núm chiêng, tạo nên màu sắc khá bắt mắt.
Anh Rơ Ô Nới (bìa phải) và Kpă Thit cùng chỉnh chiêng. Ảnh: N.Q.T
Anh Rơ Ô Nới (bìa phải) và Kpă Thit cùng chỉnh chiêng. Ảnh: N.Q.T
Theo người dân buôn Blăk, giá của một bộ chiêng đồng mới khoảng 40-50 triệu đồng; chiêng lâu đời và quý thì càng đắt hơn, có khi lến đến hàng trăm triệu đồng. Mức giá này khiến không phải gia đình Jrai nào cũng có thể sắm được chiêng. Trong khi đó, từ một cái thùng phuy giá độ 300.000 đồng, anh Nới và Thit có thể cho ra đời 5 đến 6 chiếc chiêng. Như vậy, chỉ cần chưa đến 1 triệu đồng và chừng một tháng tranh thủ sau giờ làm rẫy, 2 anh đã có thể hoàn thành bộ chiêng 16-18 chiếc, y như biên chế dàn chiêng Arap của cộng đồng mình.
Chị Phan Thị Anh Vũ-cán bộ văn hóa xã Ia Rmok-cho biết: Xã có 5 buôn với hơn 1.260 hộ, trên 6.000 khẩu, người Jrai chiếm đến 98%. Trừ 1 buôn không sở hữu cồng chiêng, 4 buôn còn lại đang lưu giữ trên 20 bộ. Đây là tài sản của các gia đình và dòng họ nên không phải lúc nào cũng có thể mang ra đánh, mà phải nhân một sự kiện quan trọng nào đấy. Trong khi đó, chiêng sắt làm từ vỏ thùng phuy tuy tiếng không vang, hình thức không đẹp bằng chiêng đồng truyền thống nhưng mặt tích cực của nó là tiện dụng và rẻ.
Theo chị Vũ, ban đầu thấy bộ chiêng sắt lạ lẫm không giống ai, nhiều người cũng nghi ngại, thậm chí buồn cười. Nhưng trong dịp kỷ niệm 40 năm Ngày thành lập huyện (23-4-2019), được sự động viên của chị, những chiếc chiêng sắt đã lần đầu tiên xuất hiện trong đội hình chào mừng sự kiện này và “chinh phục” được khán giả. Đó là một sự thay đổi rất đáng kể. Ai cũng nhìn, ai cũng đến sờ, nhấc lên, lật qua lật lại rồi gõ thử từng chiếc chiêng ấy. Sau đó, họ lắng tai nghe xem âm thanh của chúng như thế nào.
Ngồi xem đám thanh niên trong làng tập chiêng, anh Kpă Y Prơt tâm sự: “Chiêng này hợp với thanh niên. Vì chúng nó muốn tập, muốn đánh lúc nào cũng được. Không lo bị hư hỏng như chiêng đồng. Nếu chiêng có bị mất tiếng thì cũng sửa lại được ngay. Không thể bằng chiêng ông bà để lại, nhưng với đám thanh niên chúng cũng như trái bóng chuyền ấy, thích là đem ra chơi, cũng vui”. 
Đã gần 15 năm kể từ ngày UNESCO công nhận Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (25-11-2005). Qua chừng ấy thời gian, điều đáng mừng nhất là cụm từ “chảy máu cồng chiêng” không còn được nhắc đến nhiều như trước đó nữa. Quả đúng là nhận thức thay đổi đã khiến cho hành động thay đổi. Hơn chục năm qua, được sự quan tâm không chỉ của người trong nước mà còn là của cả cộng đồng quốc tế, những chủ thể của không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã biết mình phải làm gì với di sản quý báu mà cha ông truyền lại.
Thực tế cho thấy, nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số vẫn chưa hết khó khăn về kinh tế. Do đó, kinh phí để mua sắm chiêng là chuyện không dễ dàng. Trong bối cảnh đó, sự ra đời của 2 bộ chiêng sắt ở Krông Pa là một tín hiệu tích cực. Nó không chỉ cho thấy cồng chiêng đã có sự chuyển đổi mạnh mẽ về công năng mà còn khẳng định rằng, niềm đam mê trình tấu loại nhạc cụ này của những người Jrai trẻ tuổi là bất tận. Quan trọng hơn, họ đã khắc phục khó khăn để làm cho kỳ được điều mình yêu thích, qua đó góp phần lưu giữ nét văn hóa đặc sắc của dân tộc mình. 
NGUYỄN QUANG TUỆ

Có thể bạn quan tâm

Đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi

(GLO)- Người Tây Nguyên làm du lịch không chỉ bằng khu nghỉ dưỡng, mà còn bằng lòng hiếu khách và nghệ thuật kể chuyện. Vậy nên, đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi mà hãy đánh thức nó bằng chính giọng nói của rừng, bằng bàn tay của bà con và bằng tình yêu với buôn làng của mình.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Nhắc đến đại ngàn Tây Nguyên, có lẽ biểu tượng văn hóa “sừng sững” chính là những mái nhà rông, nhà dài truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong những biến chuyển của thời đại, không gian che chở các hộ gia đình và lan tỏa văn hóa cộng đồng ấy khó tránh khỏi những hư hao, nghiêng ngả.

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

(GLO)- Người Bahnar quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự hiện diện của thần linh và con người phải tôn trọng, thờ cúng. Vì vậy, họ có nếp sống, sinh hoạt văn hóa với hệ thống lễ hội vô cùng phong phú, gắn với vòng đời người và chu kỳ canh tác nông nghiệp.

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

(GLO)- Ông Rmah Aleo (làng Pan, xã Dun, huyện Chư Sê) và ông Ayó (làng Piơm, thị trấn Đak Đoa, huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai) là những người “giữ lửa” và lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc đến cộng đồng buôn làng.

null