Ao, bàu một vùng di sản

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Theo một số từ điển, ao, bàu là chỗ trũng như ao vũng, thường ở ngoài đồng hoặc vùng ruộng trũng, vùng ven sông, suối. Đây là địa hình tự nhiên phổ biến của đất nước bên núi, bên biển và nghiêng dần theo hướng Tây Bắc-Đông Nam. Nó cũng phản ánh đặc điểm văn hóa lúa nước, xứ làm nông nghiệp khi dùng nó để tích nước tưới cây trồng. Đôi lần lân la, người viết cảm nhận còn nhiều điều chưa biết nơi những ao, bàu như thế của vùng Tây Sơn Thượng đạo.

Phong phú không chỉ ở số lượng

Hồi tóc còn để chỏm theo anh, theo bạn thả trâu thả bò, sau mỗi trưa mỗi chiều, chúng tôi vẫn thường lùa trâu bò tới các ao, bàu cho chúng uống nước trước khi dong về. Một lần tôi suýt bị chết đuối khi cho bò đến uống nước ở bàu Đá. Bàu ở thôn trên, nơi cánh đồng có nhiều cỏ tốt, trâu bò mau no bụng. Bàu có tên gọi như vậy vì có một hòn đá to nằm bên cạnh và rộng đến cả trăm héc ta Trung bộ, nước sâu xanh biếc. Khi ấy tôi còn quá nhỏ, không biết bơi, trượt chân ngã, uống nước no nê, may sao nhờ bám được đám cỏ tốt mọc ven bờ mà lóp ngóp ngoi được lên. Sau chuyến thả bò “đáng nhớ” ấy, anh em chúng tôi chẳng còn dám bén mảng tới cái bàu đáng sợ đó nữa, chỉ cho bò uống nước ruộng, nước ao trên cánh đồng làng gần nhà.

Sự vật, hiện tượng gì đều không phải tự nhiên mà có. Bàu Đá quê tôi (huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định) cũng như vô vàn vùng trũng chứa nước sau tên gọi là lịch sử hình thành, vai trò, giá trị… Nói về sự độc đáo, thôn Cù Lâm, xã Nhơn Lộc, huyện An Nhơn (nay là thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định) nổi tiếng với một cái bàu cũng có tên gọi là bàu Đá. Bàu rộng chừng 3 sào, trong bàu có nhiều hòn đá to. Bàu có nhiều cá, dân làng hàng năm tập trung về bắt, cảnh tượng rất đông vui. Người dân thường lấy nước trong bàu để nấu ăn, vì nước rất ngọt và mát. Một người tên Hương Lễ thừa hưởng công thức nấu rượu từ thời vua Quang Trung đã dùng nước của bàu để nấu rượu và tạo ra loại rượu đặc trưng thơm ngon không đâu có được. Sau ông truyền nghề cho nhiều người trong vùng và hình thành làng nghề nấu rượu Bàu Đá, tồn tại và nổi tiếng đến bây giờ.

 Anh Nguyễn Thành Vinh, cán bộ Hội Nông dân phường An Bình (thị xã An Khê) kiểm tra bàu Cây Sung. Ảnh: T.S
Anh Nguyễn Thành Vinh, cán bộ Hội Nông dân phường An Bình (thị xã An Khê) kiểm tra bàu Cây Sung. Ảnh: T.S



Từ những chuyến đi có khi chầm chậm, có khi vội vàng, dần dà chúng tôi phát hiện vùng di sản Đông Gia Lai không phải chỉ có những di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng mà còn nhiều ẩn tàng văn hóa chưa khám phá hết, trong đó có ao, bàu, hồ đập, giếng, rộc và nhiều vùng trũng khác.

Theo thống kê của Phòng Kinh tế thị xã An Khê, toàn thị xã có 175 hồ đập được quy hoạch từ những năm 80 của thế kỷ trước. Một con số đáng kinh ngạc! Đây là những nơi cung cấp nguồn nước tưới cho trồng trọt, chăn nuôi và sinh hoạt của con người, nhất là mùa khô hạn. Khi cùng anh Nguyễn Thành Vinh-cán bộ Hội Nông dân phường An Bình (thị xã An Khê) khảo sát vùng rau An Bình, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên khi chứng kiến phường này có nhiều bàu nhất với gần vài chục cái: bàu Lở, bàu Rộc Bảy, bàu Cây Sung, bàu Kho, bàu Rộc Môn, bàu Cây Gáo, bàu Cây Năm… Không chỉ phong phú về số lượng, tên gọi, khả năng phục vụ nước tưới, những câu chuyện gắn với các bàu nước này cũng thú vị không kém. Và điều quan trọng là đằng sau nó ẩn chứa nhiều giá trị văn hóa có thể nhiều người còn chưa biết hết.

Ẩn tàng giá trị văn hóa

Anh Phan Duy Tiên-nguyên cán bộ làm công tác văn hóa kỳ cựu ở thị xã này-khi được hỏi về cái tên bàu Đất (phường An Tân) đã cho rằng, sở dĩ có tên như vậy là vì trước đây người dân đào lấy đất để đắp lũy An Khê, lâu dần nơi bị đào sâu biến thành một bàu nước, và cái tên bàu Đất hình thành từ đó. Dấu tích lũy An Khê kiên cố, vững chãi hiện vẫn còn, dẫu thời gian, mưa nắng, bể dâu bào mòn.

Còn với anh Khưu Đại Hiền-nguyên Phó Chủ tịch HĐND thị xã (cũng là cán bộ làm công tác văn hóa một thời gian dài trước khi chuyển sang nhiệm vụ mới) kể về bàu nước có tên là Tượng Đẫm (voi sa lầy) có từ thời Tây Sơn. Bàu nằm ở xã Cửu An, tương truyền nơi đây súc vật thường tìm đến uống nước, nghĩa quân thì lấy nước sinh hoạt. Dẫu nắng hạn cỡ nào, vùng trũng này cũng không bao giờ cạn. Một lần, khi đoàn tượng binh dừng lại uống nước, một thớt voi chẳng may bị sa lầy. Nghĩa quân tìm mọi cách nhưng không sao cứu voi lên được. Việc quân gấp gáp, nghĩa quân đành để voi lại rồi tiếp tục hành quân lên đường. Cái tên Tượng Đẫm phát sinh từ đó.

Bằng di tích hồ nước ông Nhạc 14-3. Ảnh: T.S
Bằng di tích hồ nước ông Nhạc. Ảnh: T.S



Và còn rất nhiều chuyện kể về các ao, bàu, giếng, rộc… những vùng trũng thấp với đầy bất ngờ, thú vị. Theo anh Tiên, có một chỗ trũng rất lạ mà anh từng biết là giếng nước ông Nhạc (Nguyễn Nhạc) ở làng HLang, xã Yang Nam, huyện Kông Chro, một trong cụm 16 di tích lịch sử văn hóa thuộc Tây Sơn Thượng đạo. Giếng nhỏ, nước nông nhưng rất trong và mát, đặc biệt là không bao giờ cạn, mạch phụt lên có ngọn, kiểu như suối nước Mọc ở Phong Nha-Kẻ Bàng (tỉnh Quảng Bình). Năm 2009, khi khôi phục giếng ông Nhạc, lực lượng thi công dùng máy đào múc mở rộng giếng đã làm mất cả giếng Chăm bên cạnh, từng được khảo sát có nhiều hiện vật Chăm quý giá.

Anh Tiên cũng nhận định, phần lớn các ao, hồ, bàu, đập hiện nay ở vùng Tây Sơn Thượng đạo đều gắn liền với hoạt động sản xuất nông nghiệp, đời sống cư dân khu vực và với phong trào khởi nghĩa Tây Sơn: luyện quân, tập bơi, chơi trò, lấy nước sinh hoạt, trồng tỉa sản xuất... Tuy nhiên, xác thực giá trị từng mặt để vẫn chưa hết khó khăn, lúng túng, đòi hỏi phải có thêm thời gian.

 THẤT SƠN



 

Có thể bạn quan tâm

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Nhắc đến đại ngàn Tây Nguyên, có lẽ biểu tượng văn hóa “sừng sững” chính là những mái nhà rông, nhà dài truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong những biến chuyển của thời đại, không gian che chở các hộ gia đình và lan tỏa văn hóa cộng đồng ấy khó tránh khỏi những hư hao, nghiêng ngả.

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

(GLO)- Người Bahnar quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự hiện diện của thần linh và con người phải tôn trọng, thờ cúng. Vì vậy, họ có nếp sống, sinh hoạt văn hóa với hệ thống lễ hội vô cùng phong phú, gắn với vòng đời người và chu kỳ canh tác nông nghiệp.

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

(GLO)- Ông Rmah Aleo (làng Pan, xã Dun, huyện Chư Sê) và ông Ayó (làng Piơm, thị trấn Đak Đoa, huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai) là những người “giữ lửa” và lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc đến cộng đồng buôn làng.

Thì thầm từ gốm Yang Tao

Thì thầm từ gốm Yang Tao

Nhờ may mắn làm cái nghề viết lách nên tôi từng có dịp đến nhiều trung tâm gốm của cả nước. Nghề gốm mỗi nơi mỗi kiểu, sản phẩm đơn giản có, tinh xảo có; quy trình tạo tác thủ công lẫn công nghiệp hóa vài ba công đoạn cũng có.

Cồng chiêng “nhí”: Nối dài mạch nguồn văn hóa

Cồng chiêng “nhí”: Nối dài mạch nguồn văn hóa

(GLO)- Sự ra đời và hoạt động hiệu quả của những đội cồng chiêng “nhí” ở huyện Kbang (tỉnh Gia Lai) không chỉ là kế thừa mà còn trở thành nhịp cầu nối dài mạch nguồn văn hóa truyền thống, để hồn cốt dân tộc tiếp tục sống mãi qua từng thế hệ.