70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài 8: Đồi A1 - bùn, máu và hoa

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Ngọn đồi A1 giờ đã ngủ yên dưới tán lá xanh ngát của những cây nhãn, vải, tếch, phượng đỏ, tùng, thông, đa, tre… và điểm xuyết thêm màu trắng tinh khôi của hoa ban. Du khách đến đây, ai cũng dừng lại hồi lâu trước dòng chữ “A1: bùn - máu và hoa” được đặt trang trọng trên đỉnh đồi.
Dòng chữ “A1: Bùn - máu và hoa” được đặt trên đỉnh đồi A1.

Dòng chữ “A1: Bùn - máu và hoa” được đặt trên đỉnh đồi A1.

Đào hào để giảm thương vong

Khi về thăm mảnh đất Điện Biên, có lẽ ai cũng muốn một lần được tới thăm khu di tích lịch sử đồi A1 - một biểu tượng anh hùng bất diệt của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Đây là nơi đã diễn ra trận đánh ác liệt nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Khi ấy, đồi A1 chỉ toàn màu vàng của đất, màu đen của khói, thuốc súng và màu đỏ của máu. Đó là những gì còn đọng lại trong ký ức của các chiến sĩ Điện Biên năm xưa như ông Phạm Bá Miều và ông Nguyễn Hữu Chấp.

Cựu binh Nguyễn Hữu Chấp (94 tuổi, nguyên là trung đội trưởng một trung đội súng cối 82mm) nhớ lại, ban đầu bên ta định tác chiến theo kiểu “đánh nhanh thắng nhanh”, nhưng do tập đoàn cứ điểm của Pháp tại Điện Biên Phủ quá hùng mạnh nên ta phải thay đổi phương châm thành “đánh chắc, tiến chắc” để giảm thương vong.

Với phương châm ấy, hệ thống giao thông hào là một trong những yếu tố cốt tử. Hỏa lực của địch rất mạnh, các lô cốt và công sự cũng vô cùng kiên cố, nếu bộ binh tiến công trên mặt đất sẽ phải chịu tổn thất rất lớn. Vì vậy, hệ thống giao thông hào sẽ che chắn bộ đội ta khỏi bom đạn của địch, đồng thời bảo đảm sự bí mật cho các cuộc tiến công của ta.

“Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội ta đã đào được tổng cộng hơn 400 km hầm, hào ở tất cả những nơi có chiến sự như đồi A1, C1, D1, Him Lam, Độc Lập… Không ai là không đào hào. Ai cũng giữ cái xẻng, cái cuốc như bùa hộ mệnh. Người đi đến đâu, giao thông hào phải đi đến đó. Giao thông hào là mạch máu của quân đội ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ”, ông Chấp nói.

Theo cựu binh Phạm Bá Miều (94 tuổi, quê Thái Bình, từng chiến đấu tại Tiểu đoàn 938, Trung đoàn 98, Đại đoàn 316), trước khi đào bất kỳ đường hào nào, ta phải nắm rõ được các vị trí lô cốt, ụ súng đại liên, bãi mìn, dây thép gai… của địch để luôn đi trước một bước. Ngoài ra, bộ đội ta còn đào thêm cả những hầm ếch chỉ vừa ba người ngồi để làm nơi trú ẩn, tránh đạn rocket của địch.

“Thấy bộ đội đào hầm, hào vất vả quá, cả Bác Hồ lẫn Đại tướng Võ Nguyên Giáp đều viết thư động viên với nội dung: dù con đường phía trước còn rất gian khổ, mong các đồng chí cố gắng đoàn kết, vượt qua thử thách để hoàn thành nhiệm vụ được giao”, ông Miều nói.

Hố sâu tạo ra bởi khối bộc phá nặng gần 1 tấn được bộ đội ta kích nổ.

Hố sâu tạo ra bởi khối bộc phá nặng gần 1 tấn được bộ đội ta kích nổ.

Đào hầm để xuyên núi

Một bước ngoặt then chốt không thể bỏ qua khi nói về chiến thắng Điện Biên Phủ, đó là khối bộc phá nặng 960kg đã được bộ đội ta kích nổ gần đỉnh đồi A1, nơi có hầm ngầm của quân địch. Trước đó, Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ đã xác định việc áp sát tiêu diệt các lô cốt, công sự của địch không khả thi vì địch đã tập trung binh, hỏa lực mạnh nhất về đây. Vì vậy, bộ chỉ huy đã vạch ra một kế hoạch “lấy hầm trị hầm”: bộ đội ta sẽ đào một đường hầm bí mật chạy thẳng tới lô cốt địch phía đỉnh đồi rồi chuyển khối bộc phá vào trong và kích nổ. Dự kiến đây sẽ là “cú đấm ngàn cân” để hạ nốc-ao lực lượng của Pháp tại đồi A1.

Ông Miều kể, Đại đội công binh M83 thuộc Trung đoàn công binh 151, Đại đoàn 351 được giao nhiệm vụ đào đường hầm. Dụng cụ đào hầm vẫn chỉ là cuốc chim và xẻng. Càng vào sâu, đất càng cứng và môi trường càng thiếu dưỡng khí làm nhiều đồng chí bị ngất. Chiến thuật được điều chỉnh: Chỉ bố trí một người đào, những người còn lại xếp thành hàng dài ngoài cửa hầm, dùng quạt nan quạt dưỡng khí vào trong. Dù vậy, cứ nửa tiếng là phải thay ca một lần vì việc đào hầm quá hao sức lực. Để không bị phát hiện, bộ đội ta cho đất được đào ra vào các túi dù, chuyển ra ngoài rồi đắp vào những bờ hào, bờ công sự.

Sau 15 ngày, đường hầm dài 47 mét đã hoàn thành, dù vẫn còn cách hầm ngầm của quân đội Pháp khoảng 30 mét. Các chiến sĩ xếp thành hàng dài, lần lượt chuyền tay nhau từng khối bộc phá nặng khoảng 20kg vào trong hầm cho tới khi đủ khối lượng 960kg. Đúng 20h30’ ngày 6/5/1954, các đồng chí Nguyễn Phú Xuyên Khung, Nguyễn Điệt và Nguyễn Bạch điểm hỏa khối bộc phá. Tiếng nổ hóa ra không quá lớn, nhưng rung chấn là rất mạnh, làm cả quả đồi rung lên bần bật như có động đất. Vụ nổ đã phá hủy một số lô cốt, chiến hào và tiêu diệt phần lớn đại đội dù số 2 của địch.

“Nhân lúc địch còn đang hoảng loạn, hiệu lệnh tổng công kích được phát đi, bộ binh chúng tôi từ mọi hướng lập tức xông lên, đánh chiếm hầm chỉ huy đồi A1. Ta và địch giành giật nhau từng chiến hào, từng ụ súng, cuối cùng tới sáng ngày 7/5/1954, đồi A1 đã thuộc về ta”, ông Miều kể.

“Tôi nhớ Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng dặn dò rằng, “Chúng ta không được để đồng chí nào hy sinh mà không được về nghĩa trang cùng với các đồng đội”. Đến nay, đã có tổng cộng 644 liệt sĩ được đưa về an nghỉ tại Nghĩa trang liệt sỹ A1. Mong rằng, trong tương lai, sẽ còn có thêm nhiều đồng chí nữa được đưa về đây an nghỉ, để tâm nguyện của Đại tướng được hoàn thành…”.

Ông Miều xúc động

Bùn - máu và hoa

Chiều tối ngày mùng 7/5, lá cờ Việt Nam tung bay trên hầm tướng De Castries (tướng Đờ Cát), chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi hoàn toàn. Đêm hôm ấy, ông Miều cùng các chiến sĩ dẫn tù binh Pháp ra bờ sông Nậm Rốm, giam tạm vào những chiếc lều dựng bằng dù của địch. Những đồng đội của ông, có người hét lớn vì vui mừng, có người hát vang, có người ngồi khóc nức nở… “Còn tôi chỉ nói với đồng đội rằng “Sống rồi. Chúng ta sống rồi”. Lúc ấy, tôi không rõ mình vui hay buồn, chỉ cảm thấy mình may mắn. Tiểu đội 12 người của tôi chỉ còn 5 người sống sót”, ông Miều trầm ngâm.

Cổng vào khu di tích đồi A1

Cổng vào khu di tích đồi A1

Ngày mùng 8/5, ông Miều, ông Chấp cùng những chiến sĩ Điện Biên khác bắt đầu đi tìm thi thể của những người lính đã ngã xuống trong những đường hào ngập trong bùn, đất và máu. Trưa hôm ấy, có 58 thi thể được tìm thấy. Không phải ai cũng nguyên vẹn, nhiều đồng chí đi tìm đồng đội khóc nghẹn. Những giọt nước mắt hòa cùng nước mưa, rơi trên thi thể đồng đội…

Ngọn đồi A1 giờ đã ngủ yên dưới tán lá xanh ngát của những cây nhãn, vải, tếch, phượng đỏ, tùng, thông, đa, tre… và điểm xuyết thêm màu trắng tinh khôi của hoa ban. Những ngày này, dòng người thập phương đổ về khu di tích và nghĩa trang liệt sĩ đồi A1 ngày một đông.

Những cựu chiến sĩ Điện Biên râu tóc đã bạc trắng, vẫn bước đi đầy tự hào trong màu xanh áo lính. Những cháu học sinh cấp 1, cấp 2 với gương mặt ngây thơ lấp ló phía sau vành mũ. Và cả những du khách nước ngoài đi tới đâu, họ trầm trồ đến đó. Ai cũng dừng lại hồi lâu trước dòng chữ “A1: bùn - máu và hoa”.

(Còn nữa)

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Đề án 06: Động lực xây dựng tỉnh nhà hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

(GLO)- Triển khai Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030, các cơ quan, ban, ngành, đơn vị phối hợp chặt chẽ để tháo gỡ những điểm nghẽn, khó khăn, bất cập nhằm thực hiện đúng tiến độ.

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Cùng với mục tiêu đánh chiếm pháo đài Đồng Đăng, quân địch dồn lực lượng để bao vây, đánh chiếm cứ điểm hang Đền Mẫu án ngữ con đường dẫn đến thị trấn Đồng Đăng. Tại đây, quân và dân địa phương đã kiên cường bám trụ 3 ngày đêm chống lại quân xâm lược.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Ở góc Tây Nam

Ở góc Tây Nam

Bà chủ homestay đầu tiên trên đảo Hòn Đốc (Kiên Giang) - Phương Thảo - kể hồi mới theo chồng ra đảo, ở đây cái gì cũng thiếu. Nước ngọt mỗi ngày đều phải chờ xà-lan chở từ Hà Tiên ra, mỗi nhà xách theo một can 30l ra cầu cảng nhận phát nước.

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa nước bên bờ dòng Kinh Giang, xã Tịnh Khê (TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) gắn liền với lịch sử kháng chiến thống nhất đất nước. Hiện đây là nơi mưu sinh của người dân và là điểm du lịch hấp dẫn.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Làng Quy Hòa, ngôi làng nhỏ nằm nép mình bên bờ biển Quy Nhơn, là nơi trú ngụ cho những bệnh nhân phong trong nhiều thập kỷ. Trải qua nhiều biến động, cùng với tiến bộ của y học, căn bệnh nan y ngày nào đã không còn là nỗi ám ảnh.