Về làng nghề nón lá Gò Găng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Thời tiết đã vào cuối thu nhưng cái nắng đồng bằng ở Bình Định vẫn như rang. Thị trấn Gò Găng nằm trên con đường chính vào sân bay Phù Cát đầy bụi đỏ vì hạ tầng đang được cải tạo, mở rộng. Tôi hỏi đường để vào thôn Kiều An, Phú Thành… để tìm về làng chằm nón lá truyền thống. Các mẹ, các chị nơi đây nghe tin có người hỏi tìm làng nón Gò Găng liền vội vàng ra mở cửa đón khách.
Nghề chằm nón lá Gò Găng cũng như các làng nghề truyền thống Phú Gia (xã Cát Tường, huyện Phù Cát), Thuận Hạnh (xã Bình Thuận, huyện Tây Sơn) có từ lâu đời, ít nhất cũng gần 300 năm nhưng có lẽ thịnh hành nhất là vào thời nhà Tây Sơn, khi mà loại nón ngựa ra đời thường dành cho tầng lớp trung lưu và quan lại sử dụng.
Về hình thức, chất liệu, nón lá Gò Găng không khác mấy với nón bài thơ xứ Huế. Đến nay, chưa có tài liệu nào đề cập đến chiếc nón lá xứ Huế ra đời trước hay nón lá Gò Găng có trước. Không ai biết làng nghề truyền thống chằm nón lá nơi nào có tuổi đời lâu hơn. Nhưng có một điều chắc chắn rằng, chiếc nón lá xuất hiện ở Đàng Trong là một sự sáng tạo của người Việt trong thời kỳ “mở cõi về phương Nam”. Trong khi đó, người Đàng Ngoài (xứ Bắc) hầu hết sử dụng nón ba tầm, sau này cải tiến thành nón quai thao.
Ban đầu, chiếc nón được làm ra để che mưa, che nắng, dần dần nó được cải tiến, nâng cấp với chất lượng và thẩm mỹ cao hơn, kỳ công hơn và đối tượng sử dụng nó cũng bó hẹp trong một giới nhất định (giới nữ với nón bài thơ) hay thành phần quyền quý, giàu có (nón ngựa)…
Nghề làm nón lá có nhiều công đoạn nhưng việc chằm nón đòi hỏi phải có sự chăm chỉ, khéo léo của bàn tay phụ nữ. Các mẹ, các chị trong các làng nghề nón truyền thống ở Gò Găng hiện nay là những lao động chính sản xuất nón lá đại trà và thường tập trung vào thời điểm nông nhàn hay tận dụng những giờ rảnh rỗi.
Sở dĩ, xưa nay có thương hiệu “nón lá Gò Găng” là vì trước đây, các địa phương sản xuất nón lá ở tỉnh Bình Định đều tập trung về chợ nón Gò Găng để tiêu thụ trong cả nước. Có lẽ, đây là chợ nón đầu mối lớn nhất ở miền Trung bấy giờ. Nón lá Gò Găng đã trở thành sản vật nổi tiếng không chỉ là công cụ để che mưa nắng mà nó còn là vật trang sức làm đẹp. Trong ca dao xứ Nẫu còn phổ biến câu: “Cưới nàng đôi nón Gò Găng/Xấp lãnh An Thái một khăn trầu nguồn”.
Một nhóm phụ nữ ở thị trấn Gò Găng (huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định) đang chằm nón. Ảnh: Bùi Quang Vinh
Một nhóm phụ nữ ở thị trấn Gò Găng (huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định) đang chằm nón. Ảnh: Bùi Quang Vinh
Để làm ra chiếc nón đạt chất lượng cao sử dụng cho trang sức hay nón cho giới quan lại tốn nhiều công sức và vật tư hơn. Nón ngựa ở Phú Gia là một sản vật đặc trưng của địa phương, được chế tác kỳ công với kết cấu đặc biệt và nhiều công đoạn công phu. Các nguyên liệu như: lá cọ (lá kè), cật giang, rễ dứa làm chỉ khâu… đều được chọn lựa kỹ càng, phơi nắng, phơi sương để đạt đến độ bền tối đa. Hoa văn trên nón ngựa được chọn các hình ảnh mang đậm bản sắc văn hóa Việt như: long-ly-quy-phụng, hoa sen, bầu rượu… Đặc biệt, trên chóp nón ngựa được gắn chóp bịt bạc hoặc đồng.
Ngày xưa, thời nhà Tây Sơn, nón ngựa sản xuất chủ yếu dành cho quan lại đội khi ngồi trên lưng ngựa. Tùy theo phẩm trạch mà người ta thêu hoa văn, gắn chóp bằng kim loại gì trên chiếc nón ngựa. Chính vì được chế tác kỳ công nên độ bền của nón ngựa có thể giữ được hàng trăm năm. Ngày nay, thường chỉ khi nào có khách du lịch yêu cầu đặt hàng làm nón ngựa thì các nghệ nhân làng nghề nơi đây mới chế tác.
Sở dĩ, hiện nay các làng nghề truyền thống làm nón lá ở Bình Định còn tồn tại mặc dù sản phẩm làm ra và tiêu thụ không nhiều như xưa, là nhờ nguồn cung cấp nguyên liệu khá dồi dào từ vùng rừng núi phía Đông Gia Lai (chủ yếu là rừng vùng Kbang). Hai loại nguyên liệu tự nhiên làm nên chiếc nón lá là lá cọ (lá kè) và cây giang núi. Các loại cây lá này có nhiều ở rừng tự nhiên phía Tây Bắc Bình Định (hiện nay nằm trên địa phận rừng ở Kbang hay Kon Plông (tỉnh Kon Tum).
Theo nhận xét của nhiều người, nón lá Gò Găng của miền đất võ về mặt kết cấu và chất liệu không khác mấy với nón bài thơ xứ Huế, nhưng chiếc nón-sản phẩm của người Bình Định có vẻ cứng cáp, đầy đặn, chân chất hơn, có thể sử dụng cho cả nam và nữ khi lao động ở ngoài trời.
BÙI QUANG VINH

Có thể bạn quan tâm

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

(GLO)- Tại Kỳ họp thứ 19 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể diễn ra tại Thủ đô Asunción (Cộng hòa Paraguay) vào ngày 4-12, UNESCO đã chính thức ghi danh Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam của Việt Nam vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

(GLO)- Năm 1993, Sở Văn hóa-Thông tin (VH-TT) và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai đã ký kết chương trình phối hợp hành động với nhiều hoạt động thiết thực, trong đó có mô hình “Điểm sáng văn hóa vùng biên”.

Mừng lúa mới trên cao nguyên

Mừng lúa mới trên cao nguyên

(GLO)- Sau khi thu hoạch mùa vụ và đưa lúa về kho, đồng bào Jrai náo nức với lễ mừng lúa mới. Nghi lễ nông nghiệp cổ truyền độc đáo này đã được bà con duy trì từ bao đời nay.

Biến sản phẩm văn hóa thành quà tặng du lịch

Biến sản phẩm văn hóa thành quà tặng du lịch

(GLO)- Quà lưu niệm từ sản phẩm văn hóa vừa là “sứ giả” du lịch, vừa góp phần đem lại thu nhập cho người dân. Việc tổ chức các cuộc thi tay nghề đan lát, dệt thổ cẩm nhằm tìm kiếm sản phẩm đặc sắc làm quà tặng đã góp phần nâng cao đời sống người dân và thúc đẩy du lịch nông thôn phát triển.

Tiết mục hát dân ca của em Đinh Doanh và đoàn nghệ nhân xã Pờ Tó trong chương trình “Cồng chiêng cuối tuần-Thưởng thức và trải nghiệm” tại huyện Ia Pa. Ảnh: V.C

Cồng chiêng cuối tuần trở lại Ia Pa

(GLO)- Tối 17-11, chương trình “Cồng chiêng cuối tuần-Thưởng thức và trải nghiệm” tiếp tục được tổ chức tại huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai. Chương trình mang đến nhiều tiết mục đặc sắc làm nức lòng người dân và du khách.

Giá trị của liên hoan

Giá trị của liên hoan

Liên hoan Cải lương toàn quốc năm 2024 tổ chức tại TP Cần Thơ vừa khép lại. Bên cạnh những hồ hởi, vui vẻ, nhiều nỗi niềm của sân khấu cải lương truyền thống cũng đã bộc lộ trong mùa liên hoan năm nay.

Chuyện một “công trình sư” Bahnar

Chuyện một “công trình sư” Bahnar

(GLO)- Sau khi hoàn tất việc cắt lúa, ông Chánh thư thái ngồi trò chuyện cùng chúng tôi bên ghè rượu. Phẩm chất nghệ sĩ của người nông dân với tư cách “công trình sư” một loạt công trình, mô hình ghi dấu bản sắc văn hóa tại Quảng trường Đại Đoàn Kết (TP. Pleiku) hiện diện trước mặt chúng tôi.

Các nghệ nhân làng Chuet 2 (phường Thắng Lợi) phục dựng lễ báo hiếu cha mẹ tại Làng Văn hóa-Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ảnh: Thu

Lễ báo hiếu của người Jrai

(GLO)- Lễ báo hiếu cha mẹ là tập tục văn hóa truyền thống đã có từ xa xưa trong đời sống của cộng đồng người Jrai. Đây là dịp để những người con đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục và cầu mong thần linh ban sức khỏe cho cha mẹ.

Bảo tồn bản sắc làng Bahnar - Kỳ cuối: Cần phát huy giá trị văn hóa truyền thống

Bảo tồn bản sắc làng Bahnar - Kỳ cuối: Cần phát huy giá trị văn hóa truyền thống

(GLO)- Cách đây gần 18 năm, trong một số công trình điều tra văn hóa các làng đồng bào dân tộc thiểu số ở TP. Pleiku thì người ta xếp một số buôn làng trong khu vực, trong đó có làng Wâu và Ktu (xã Chư Á) là làng tương đối có giá trị, đưa vào diện bảo tồn và phát triển.

Sân trường rộn tiếng cồng chiêng

Sân trường rộn tiếng cồng chiêng

(GLO)- Cứ mỗi buổi sinh hoạt, khuôn viên Trường Phổ thông Dân tộc bán trú THCS Lơ Pang (xã Lơ Pang, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai) lại rộn ràng tiếng cồng chiêng. Âm thanh quen thuộc ấy đến từ đôi tay nhỏ bé của các em học sinh thuộc Câu lạc bộ (CLB) Cồng chiêng của trường.