Tượng gỗ Bahnar, Jrai trong dòng chảy thời gian

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Tượng gỗ là một loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo của cộng đồng các dân tộc vùng Trường Sơn-Tây Nguyên nói chung, người Bahnar, Jrai nói riêng. Sự đan xen hài hòa giữa hiện thực và hư ảo, mộc mạc và tinh tế, kết hợp giữa quá khứ và hiện tại, không gian và thời gian… được phản ánh qua những “rừng tượng” phong phú, đa dạng về hình thức cũng như phong cách thể hiện và nội dung phản ánh hiện thực cuộc sống.
Sự biến đổi hay là tiếp biến từ truyền thống đến hiện đại là những giá trị cốt lõi để tượng gỗ tồn tại và phát triển bền vững theo thời gian. Ứng với mỗi thời kỳ, tượng gỗ mang một sắc thái, phong cách và biểu trưng cho một giai đoạn khác nhau nhằm biểu đạt tâm tư, tình cảm và nhận thức của con người với con người, cộng đồng và thế giới siêu nhiên.
Ở xã hội hiện đại, sự biến đổi là tất yếu và được thể hiện dưới nhiều phương diện khác nhau. Trước hết, về không gian, thời gian và những nghi thức liên quan trong việc tạo ra tượng gỗ. Đa phần tượng gỗ (chủ yếu là tượng nhà mồ, hay gọi là tượng mồ) được tạo ra trong những không gian thiêng và gắn liền với những hoạt động tâm linh, đó là lễ bỏ mả. Tượng gỗ và các chi tiết điêu khắc trong ngôi nhà mồ được làm ra để phục vụ cho lễ bỏ mả. Với quan niệm, chết là một sự chia lìa với người sống nhưng không phải là hết nên tượng mồ người Bahnar, Jrai biểu hiện một cách sinh động, tái hiện lại toàn bộ sự sống để cùng với người chết về với thế giới mới, để người chết cảm nhận được cuộc sống ở thế giới mới. Trước đây, “mùa ning nơng” hay “mùa ăn năm uống tháng” là mùa nhàn rỗi, hoạt động lễ hội thường diễn ra dài ngày với nhiều lễ hội, trong đó, lễ bỏ mả diễn ra cả tuần, có khi kéo dài cả tháng, hoạt động đục đẽo tượng gỗ cũng gắn liền với các nghi thức nghiêm ngặt. Ngày nay, khi cuộc sống đã có những biến đổi, thời gian lễ hội cũng giảm đi. Vì vậy, thời gian và không gian tạo ra tượng gỗ có sự biến đổi rõ rệt. Nếu như trước đây, việc làm tượng có thể diễn ra trong thời gian dài gắn liền với những nghi thức tâm linh nghiêm ngặt, thì nay, việc làm tượng gỗ có thể diễn ra ở nhiều nơi, thời gian ngắn hơn, không gian tạo tác cũng tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của từng gia đình.
Nhà mồ làng Kép, xã Ia Mơ Nông, huyện Chư Păh. Ảnh: Xuân Toản
Nhà mồ làng Kép, xã Ia Mơ Nông, huyện Chư Păh. Ảnh: Xuân Toản
Không gian tạo tác tượng gỗ biến đổi kéo theo sự biến đổi không gian sinh tồn. Trong truyền thống, tượng gỗ phần lớn tập trung tại khu vực mộ địa, một số ít được trưng bày trong nhà rông, nhà sàn chỉ mang tính chất trang trí điểm xuyết. Còn ngày nay, với các mục đích, chức năng khác nhau, tượng gỗ hiện diện trong nhiều không gian như: nhà mồ, nhà rông, bảo tàng, các nhà sưu tập, nhà hàng, quán cà phê, công viên… Không tồn tại trong chính không gian sinh tồn của chính nó, nhưng sự có mặt của tượng gỗ trong những môi trường mới là những biểu hiện sự tiếp biến về vai trò, chức năng của tượng gỗ trong xã hội hiện đại.
Chúng ta biết rằng, không gian sinh tồn của tượng gỗ gắn liền với rừng, yếu tố rừng giữ vai trò rất quan trọng trong việc làm ra tượng gỗ. Sự biến đổi của rừng trong những năm gần đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi tượng gỗ, trong đó nguồn nguyên liệu là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp. Nếu như trước đây, nguyên vật liệu để tạo ra tượng gỗ vô cùng phong phú với nhiều loại gỗ tốt nhưng dễ đục đẽo và ít bị nứt nẻ, thì ngày nay tượng chủ yếu được làm từ các loại gỗ nhóm V, VI như: bạch đàn, dầu rái, sồi… 
Sự biến động xã hội qua các thời kỳ diễn ra ngày càng mạnh mẽ, lực lượng nghệ nhân ngày càng khan hiếm, giảm dần về số lượng cũng như tay nghề. Trong xã hội truyền thống nhiều phong tục tập quán, tín ngưỡng được duy trì, việc làm tượng vừa thể hiện tính tâm linh, sự phong phú trong đời sống tinh thần, vừa thể hiện được tài nghệ của nghệ nhân. Hiện nay, khi xã hội phát triển, trước sự giao thoa của văn hóa, một số phong tục tập quán dần mai một, thì không gian sinh tồn của tượng gỗ cũng biến đổi, nghệ nhân nhiều khi không có điều kiện để thực hành...
Tuy nhiên cần thấy rằng, trong xã hội hiện đại, sự biến đổi là tất yếu. Khi đó, vai trò văn hóa truyền thống lại càng được thể hiện rõ hơn, là cầu nối giữa quá khứ hiện tại và tương lai, giữa truyền thống và hiện đại, gắn kết cộng đồng dân tộc, là xuất phát điểm của quá trình phát triển. Do đó, việc bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa truyền thống là nhiệm vụ cấp thiết đòi hỏi sự tham gia của toàn dân, toàn xã hội, đặc biệt là cần có sự tham gia của chính chủ thể văn hóa. Khi đó, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa nói chung, tượng gỗ của người Bahnar, Jrai nói riêng mới bền chặt.
XUÂN TOẢN

Có thể bạn quan tâm

Ông từ giữ đình cứu sống cây đa cổ thụ

Ông từ cứu sống cây đa cổ thụ ở An Khê đình

(GLO)- Vô tình bị lửa “thiêu”, cây đa cổ thụ phía sau An Khê đình (Khu di tích Tây Sơn Thượng đạo, phường An Khê) suy yếu dần, có nguy cơ bị chết. Với tinh thần trách nhiệm cao, ông Ngô Văn Đường-Câu đình (người trông giữ, hương khói đình làng) đã cứu sống cây đa này.

Già làng “2 giỏi” của xã Ia Phí

Già làng “2 giỏi” của xã Ia Phí

(GLO)- Ông Rơ Châm Khir (SN 1954, làng Kênh, xã Ia Phí, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai) không chỉ có đôi tay tài hoa vẽ những bức tranh sơn dầu, tượng gỗ dân gian đặc sắc, mà còn là già làng uy tín được cộng đồng tin tưởng.

Dùng mặt nạ kỹ thuật số để phục hồi tranh. (Ảnh: Franetic)

Công nghệ đột phá phục chế tranh cổ chỉ trong vài giờ

(GLO)-Với những bức tranh có niên đại hàng thế kỷ, bị hỏng nặng, việc phục chế gặp nhiều rủi ro và tiêu tốn thời gian. Một bước đột phá về công nghệ vừa được các nhà khoa học thử nghiệm thành công, đã giải quyết được khó khăn này, đó là phương pháp mặt nạ kỹ thuật số.

Đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi

(GLO)- Người Tây Nguyên làm du lịch không chỉ bằng khu nghỉ dưỡng, mà còn bằng lòng hiếu khách và nghệ thuật kể chuyện. Vậy nên, đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi mà hãy đánh thức nó bằng chính giọng nói của rừng, bằng bàn tay của bà con và bằng tình yêu với buôn làng của mình.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

null