Tục rào làng của đồng bào Tây Nguyên xưa

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Trước đây, giữa các buôn làng Tây Nguyên có sự biệt lập, việc đi lại khó khăn nên yếu tố “tự quản” được coi trọng hàng đầu. Việc rào làng, bố phòng nhằm giữ gìn an ninh, bảo vệ cuộc sống dân làng đã trở thành tập quán lâu đời của đồng bào.
Mỗi khi xây dựng làng mới, cất nhà xong là bà con các dân tộc Tây Nguyên liền tiến hành rào làng, làm cổng ngõ rất kiên cố. Hàng rào xung quanh làng được dựng lên chẳng những nhằm bảo vệ cuộc sống dân làng mà còn là dấu hiệu phân định giới mốc, địa vực cư trú, sở hữu đất đai của gia đình, tộc họ và của cả buôn làng. Đây cũng là dấu hiệu thông báo điều kiêng cữ, cấm người ngoài vào làng khi gặp những biến cố như dịch bệnh. Rào làng do vậy luôn gắn bó với nếp sống văn hóa của các tộc người.
Hàng rào, cổng làng được làm bằng tre nứa, cây rừng nhỏ hoặc có thể trồng tre gai. Hàng rào có chừa những lối đi vào làng và ra rừng, lên rẫy. Đầu tiên, dân làng phân công nhau đóng hàng ngàn, hàng vạn cây làm cọc rồi chọn cây nứa, cây rừng nhỏ... xếp thành một dãy dài, sau đó dùng dây mây, dây chạc chìu... để buộc các cây nứa, thanh gỗ vào cọc. Hàng năm, vào lúc nông nhàn, dân làng tập trung tu sửa, gia cố những chỗ bị hư hỏng. Các lối đi đều làm cửa chắn. Mỗi tối, thanh niên trai tráng được các già làng cắt cử thành từng nhóm tuần tra, canh gác quanh làng.
Có bờ rào vững chắc, cuộc sống của dân làng sẽ bình yên. Đây là cách thức đơn giản để có thể bảo vệ con người, vật nuôi, đề phòng kẻ xấu và thú rừng vào làng. Có hàng rào ngăn cách, trẻ con không đi xa ra khỏi làng, bị lạc vào rừng hoặc ngã xuống vực sâu, khe suối. Rào làng cũng được dựng lên để những con vật nuôi không thể đi vào núi, không sang làng khác. Nếu để con trâu, con bò, con heo đến làng khác phá phách, cày ủi hư hại hoa màu, cây cối thì người chủ sẽ bị phạt vạ. Ngoài rào làng, đồng bào còn làm hàng rào ở một số vị trí khác như nương rẫy, quanh các cánh đồng lúa bậc thang để ngăn thú rừng, quanh quần thể nhà mồ của dân tộc Bahnar, Jrai-nơi có nhiều tác phẩm điêu khắc gỗ, vật dụng như chén bát, ché cổ... do người thân “chia của” cho người quá cố.
Ngôi làng của người Bahnar Rơngao tỉnh Kon Tum với hàng rào kiên cố xung quanh. Ảnh: Daniel Léger
Ngôi làng của người Bahnar Rơngao tỉnh Kon Tum với hàng rào kiên cố xung quanh. Ảnh: Daniel Léger
Người M’Nông phía Nam Tây Nguyên có nhiều tục lệ kiêng cữ liên quan đến việc rào làng để tránh thú dữ. Đặc biệt, với họ, việc đàn voi rừng vào làng ăn bụi chuối, bụi mía hoặc phá nhà cửa là điềm chẳng lành. Khi ấy, dân làng phải cúng phòng tai nạn, rủi ro. Những lúc bất ổn, thanh niên trai tráng trong làng lúc nào cũng sẵn sàng ứng phó, luôn mang theo bên mình chiếc ná, gùi tên, dao gươm và lao để thay phiên nhau tuần tiễu canh gác phía ngoài hàng rào vào ban đêm. Mỗi làng đều có một cái trống to, nghe tiếng trống cả làng phải chạy lánh nạn.
Hàng năm, tu sửa rào xong, đồng bào M’Nông phải làm lễ cúng rào (Bư brah ndrâm dăk mpông mpên). Lễ vật cúng thần rào là 1 con trâu và 1 ghè rượu. Tất cả thành viên trong làng đều phải có mặt đông đủ. Vừa uống rượu cần, các già làng vừa giáo dục, dặn dò con cháu quan tâm đến việc bố phòng, đề cao cảnh giác phòng kẻ xấu đến cướp phá buôn làng. Người nào giấu giếm hoặc giúp kẻ xấu phá hoại buôn làng, người đó phải bị xử phạt nghiêm minh theo luật tục. Ngày cúng rào, thanh niên trai tráng vui chơi, thi thố tài năng như thi bắn ná, phóng lao, nhảy hàng rào và thi vật rất vui nhộn. Tiếng cồng chiêng hòa với nhạc trống và nhạc tù và cứ thế vang vọng mãi.
Cùng với lễ cúng rào, người M’Nông còn có lễ cúng ngõ. Lễ cúng thường tổ chức vào tháng 3 Âm lịch, tức là vào cuối mùa khô, đầu mùa mưa. Lễ cúng ngõ thường tổ chức khi có hiện tượng mưa gió, sấm sét. Trong đời sống tâm linh, người M’Nông sợ nhất 3 vị thần, đó là thần Djut (thần Gió bão), thần Ndu (thần Sấm sét) và thần Krăch (thần Mưa đá). Theo đồng bào, đây là 3 vị thần hung ác, đi đến đâu là gây tai họa cho con người đến đó. Còn theo truyền thuyết dân gian, giữa 3 vị thần này đã có thù nghịch, hiềm khích từ thuở khai sơn lập địa. Lúc nào gặp nhau họ cũng khiêu chiến, gây sự. Các thần đánh đuổi nhau đến đâu thì xảy ra mưa bão, sấm sét đến đó. Vì vậy, theo quan niệm của người M’Nông, nếu không muốn cho 3 vị thần này đi qua làng mình thì phải cúng để thần chạy đi nơi khác.
Tập tục rào làng gắn bó với tập quán cư trú, đời sống văn hóa của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên. Đây là cách thức thích ứng của đồng bào để duy trì cuộc sống bình yên, an toàn trước rủi ro, địch họa. Ngày nay, những bờ rào quanh các buôn làng ở Tây Nguyên hầu như không còn nữa, nhưng dấu vết của chúng được tìm thấy trong các bức ảnh tư liệu xưa do các nhà dân tộc học nước ngoài chụp ở nhiều tỉnh Tây Nguyên... Đối với buôn làng cổ truyền, rào làng là một bộ phận không thể thiếu làm nên không gian cư trú, nếp sống cộng đồng, là biểu tượng của sự chở che, an lành và bền vững mà con người luôn hướng tới.
TẤN VỊNH

Có thể bạn quan tâm

Dùng mặt nạ kỹ thuật số để phục hồi tranh. (Ảnh: Franetic)

Công nghệ đột phá phục chế tranh cổ chỉ trong vài giờ

(GLO)-Với những bức tranh có niên đại hàng thế kỷ, bị hỏng nặng, việc phục chế gặp nhiều rủi ro và tiêu tốn thời gian. Một bước đột phá về công nghệ vừa được các nhà khoa học thử nghiệm thành công, đã giải quyết được khó khăn này, đó là phương pháp mặt nạ kỹ thuật số.

Đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi

(GLO)- Người Tây Nguyên làm du lịch không chỉ bằng khu nghỉ dưỡng, mà còn bằng lòng hiếu khách và nghệ thuật kể chuyện. Vậy nên, đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi mà hãy đánh thức nó bằng chính giọng nói của rừng, bằng bàn tay của bà con và bằng tình yêu với buôn làng của mình.

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

(GLO)- Lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui là hiện tượng văn hóa xã hội đặc sắc của cộng đồng người Jrai ở Plei Ơi, xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Nghi lễ này tập hợp nhiều biểu tượng văn hóa độc đáo giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới tâm linh của cư dân bản địa.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Nhắc đến đại ngàn Tây Nguyên, có lẽ biểu tượng văn hóa “sừng sững” chính là những mái nhà rông, nhà dài truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong những biến chuyển của thời đại, không gian che chở các hộ gia đình và lan tỏa văn hóa cộng đồng ấy khó tránh khỏi những hư hao, nghiêng ngả.

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

(GLO)- Tuy có sự phát triển của hệ thống thủy lợi song lễ cúng cầu mưa vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống cư dân vùng thung lũng Cheo Reo. Sự đa dạng trong nghi thức cúng của mỗi cộng đồng dân cư đã góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

(GLO)- Người Bahnar quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự hiện diện của thần linh và con người phải tôn trọng, thờ cúng. Vì vậy, họ có nếp sống, sinh hoạt văn hóa với hệ thống lễ hội vô cùng phong phú, gắn với vòng đời người và chu kỳ canh tác nông nghiệp.

null