Sâm 'quốc bảo' Việt đi về đâu?: Cần chung tay giải bài toán khó

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Không chỉ những bất cập từ thị trường, hành trình đưa sâm Việt Nam thành 'quốc bảo' còn gặp nhiều vấn đề khác ở ngay chính nội tại, mà muốn giải quyết cần sự chung tay của nhiều cơ quan, ban ngành.

Bài toán vốn - giống

Chương trình phát triển sâm Việt Nam (SVN) đến năm 2030, định hướng đến 2045 được nêu ra trong Quyết định (QĐ) số 611/QĐ-TTg ngày 1.6.2023, đề ra mục tiêu xây dựng và phát triển SVN thành ngành hàng có giá trị kinh tế cao, là sản phẩm chủ lực trong lĩnh vực y - dược và chăm sóc sức khỏe, mang thương hiệu sản phẩm quốc gia; góp phần tạo việc làm, thu nhập cho người dân, phát triển kinh tế - xã hội… Nhiều người cho rằng đó là quyết định rất đúng đắn. Tuy nhiên, nhìn vào thực trạng phát triển SVN hiện nay, để đạt "chỉ tiêu" như QĐ 611, cần phải tháo gỡ nhiều vấn đề.

Đây được coi là mô hình trồng sâm theo hướng công nghiệp đầu tiên thành công tại Việt Nam

Đây được coi là mô hình trồng sâm theo hướng công nghiệp đầu tiên thành công tại Việt Nam

Đến các vùng trồng sâm mới thấy rõ giống là bài toán nan giải. Tại Quảng Nam, nhiều người trồng sâm Ngọc Linh (SNL) cho hay giống không những quá thiếu mà còn rất đắt (một hạt giống khoảng trên dưới 100.000 đồng). Các vùng trọng điểm khác trồng SNL, sâm Lai Châu (SLC), giống ngay bản địa vẫn rất ít. Hạt giống, cây giống đang thiếu trầm trọng như thế, nhưng chưa có các trung tâm nghiên cứu và cung cấp giống tầm cỡ quốc gia.

Thiếu vốn cũng là "điệp khúc" của người trồng sâm, nhất là đồng bào bản địa. Đầu tư trồng một héc ta sâm tốn hàng tỉ đồng, đây quả là bài toán quá khó đối với nông dân. Tìm hiểu qua một doanh nghiệp trồng sâm thì được biết họ trồng 5 ha sâm cho đến kỳ thu hoạch phải đầu tư khoảng 50 tỉ đồng. Trong khi đó, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số có nội dung chi hỗ trợ phát triển vùng trồng dược liệu quý với mức 126 triệu đồng/ha. Một chuyên gia trồng sâm nói, đối với cây sâm thì mức chi đó (nếu có) cũng chỉ như "muối bỏ biển".

Một vườn trồng sâm Ngọc Linh thử nghiệm ở Lai Châu, nhưng chưa thành công

Một vườn trồng sâm Ngọc Linh thử nghiệm ở Lai Châu, nhưng chưa thành công

Nếu trồng sâm Ngọc Linh để lấy củ thì trồng trong sọt nhựa là không phù hợp

Nếu trồng sâm Ngọc Linh để lấy củ thì trồng trong sọt nhựa là không phù hợp

QĐ 611 đề cập đến việc phát triển vùng nguyên liệu SVN quy mô hàng hóa tại các tỉnh Quảng Nam, Kon Tum và Lai Châu. Song phát triển như thế nào để đạt "quy mô hàng hóa" thì không đơn giản.

Hiện nay, các vùng trọng điểm trồng SNL và SLC có sản lượng quá thấp, giá sâm cao ngất. Nhiều người cho rằng, để thúc đẩy sự phát triển sâm Việt, một yếu tố rất quan trọng là kéo giá sâm xuống. Chỉ khi giá thành phù hợp thì SVN mới đạt "quy mô hàng hóa", tiếp cận được nhiều người tiêu dùng. Việc giảm giá thành cũng hạn chế sự giả mạo và sâm kém chất lượng. "Để làm được điều này, chúng ta cần tăng diện tích trồng sâm ở nhiều vùng có điều kiện khí hậu phù hợp và phát triển phương pháp trồng tối ưu, nhằm tăng sản lượng. Tuy nhiên, cần cân nhắc, không gây ảnh hưởng tiêu cực đến rừng tự nhiên và duy trì cân bằng sinh thái", một chuyên gia về sâm Việt chia sẻ.

Người dân Nam Trà My vẫn trồng SNL dưới tán lá rừng với quy mô nhỏ lẻ và thiếu vốn đầu tư

Người dân Nam Trà My vẫn trồng SNL dưới tán lá rừng với quy mô nhỏ lẻ và thiếu vốn đầu tư

Hầu hết vùng sâm Ngọc Linh vẫn trồng sâm dưới tán lá rừng

Hầu hết vùng sâm Ngọc Linh vẫn trồng sâm dưới tán lá rừng

Nhìn sang xứ Hàn, một năm nước này thu hoạch khoảng 25.000 - 30.000 tấn nhân sâm, mới chạnh lòng về sản lượng SVN hiện nay. Những hội chợ SVN, nơi các địa phương quảng bá là "muốn mua được sâm thật hãy đến đây", nhưng con số tổng kết bán được mỗi kỳ hội chợ chỉ mấy chục ký sâm.

Sớm có quy trình chuẩn

Tỉnh Lai Châu thừa nhận thực tiễn việc nhân giống, bảo tồn, phát triển SLC thời gian qua chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Nguồn lực nội tại của tỉnh chưa đủ mạnh nhằm huy động đầu tư, mở rộng vùng trồng để đưa sản phẩm SLC trở thành một trong những sản phẩm chủ lực.

Còn ông Hồ Quang Bửu, Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam, trải lòng: "Để chương trình phát triển SVN đi vào thực tiễn thì phải triển khai nhanh. Hàn Quốc đi trước chúng ta rất lâu. Chúng ta đi chậm thì mãi mãi đi sau họ". Nhưng làm sao để "đi nhanh" khi còn chồng chất bất cập ?

Trao đổi với GS-TS Park Jeong-hill (ĐH Quốc gia Seoul, nguyên Chủ tịch Hội Nhân sâm Hàn Quốc), ông cho biết: Hơn 500 năm qua, Hàn Quốc đã tích lũy nhiều kinh nghiệm trồng nhân sâm. Thời hiện đại, Hàn Quốc đã tiến bộ rất nhiều trong nghiên cứu các phương pháp trồng trọt khoa học. Có nhiều nghiên cứu về nguyên nhân và cách điều trị các bệnh và sâu bọ khác nhau, tiêu chuẩn cho đất phù hợp nhất để trồng sâm; phương pháp, vật liệu để che chắn trang trại sâm. Dựa trên kết quả của những nghiên cứu lâu dài, phương pháp trồng sâm tiêu chuẩn (SGCM) đã được phát triển tại Hàn Quốc. Nông dân sử dụng SGCM này làm cơ sở và điều chỉnh phương pháp để phù hợp với riêng mình.

Một người dân tộc Xê Đăng ở Nam Trà My (Quảng Nam) đang trồng sâm nói rằng họ không có vốn để đầu tư trồng lớn

Một người dân tộc Xê Đăng ở Nam Trà My (Quảng Nam) đang trồng sâm nói rằng họ không có vốn để đầu tư trồng lớn

Mô hình trồng sâm công nghiệp tại Trung Quốc

Mô hình trồng sâm công nghiệp tại Trung Quốc

Ở Việt Nam thì sao? Từ lúc SVN được phát hiện đến nay với nhiều đề tài nghiên cứu trồng trọt được triển khai, nhưng vẫn chưa có quy trình trồng sâm chuẩn (SOP) nào. Không có quy trình chuẩn thì yêu cầu thực hiện nuôi trồng và thu hái sâm theo nguyên tắc GACP-WHO và thực hành sản xuất, chế biến theo tiêu chuẩn GMP-WHO theo QĐ 611 cũng sẽ khó đạt được. "Việc kiểm soát quy trình trồng và bảo vệ người trồng, theo tôi là vấn đề cần quan tâm hiện nay", TS Phạm Quang Tuyến (Viện Nghiên cứu Lâm sinh) bày tỏ.

Nỗi lo rất lớn của những người trồng sâm Việt là Trung Quốc trồng được SLC với sản lượng cực kỳ lớn và hầu hết số đó bán lậu sang Việt Nam với giá rẻ không tưởng. Ông Võ Trung Mạnh, Phó chủ tịch UBND H.Tu Mơ Rông (Kon Tum), băn khoăn: "Hiện nay trên thị trường có nhiều loại sâm có hình thái rất giống SNL nên rất khó khăn trong việc quản lý thương hiệu SNL. Nhất là việc quản lý, sử dụng và xử lý vi phạm về chỉ dẫn địa lý; xử lý đối với các tổ chức, cá nhân liên quan đến thu mua, chế biến và lợi dụng thương hiệu SNL chưa rõ ràng, thiếu quyết liệt từ các cấp dẫn đến mất niềm tin, ảnh hưởng đến thương hiệu SNL".

Tiến sĩ Phạm Quang Tuyến cho rằng khi nào Việt Nam chủ động được sản lượng sâm thì sâm lậu mới hết đất sống. Giá SVN phải phân cấp được chất lượng từ phổ thông, trung và cao cấp. Ai tiền nhiều thì dùng sâm tự nhiên, ai tiền ít thì dùng sâm trồng công nghiệp. Mặt khác, cần minh bạch thị trường và sản phẩm sâm theo nguồn gốc, xuất xứ.

3 việc cần làm ngay

Theo GS-TS Park Jeong-hill, có 3 việc cần được thực hiện ngay lập tức để phát triển sâm Việt. Thứ nhất là phát triển phương pháp trồng tiêu chuẩn để nông dân có thể trồng sâm quy mô lớn. Đây là yếu tố quan trọng cho việc sản xuất hàng loạt. Tuy nhiên, việc này mất rất nhiều thời gian và tiền bạc, người nông dân thông thường khó thực hiện được, mà phải do chính phủ thực hiện.

Thứ hai là nghiên cứu khoa học. Người ta chỉ sử dụng sâm Việt khi có bằng chứng khoa học cho thấy lợi ích đối với sức khỏe. Điều này đòi hỏi các nhà khoa học phải tiến hành nghiên cứu nhiều hơn nữa. Trên toàn thế giới, có hơn 15.000 bài báo khoa học về sâm. Tuy nhiên, có ít hơn 100 nghiên cứu về sâm Việt. Nếu không có nghiên cứu, sâm Việt sẽ không thể phát triển thành một sản phẩm hàng đầu thế giới.

Thứ ba là bảo tồn nguồn gien. Sâm Việt Nam về mặt di truyền có sự đa dạng rất lớn. Cần phải khẩn trương bảo đảm và bảo tồn tài nguyên di truyền đa dạng này. Bởi vì nguồn gien quan trọng nhất đang nằm trong sâm hoang dã. Đáng tiếc, sâm Việt hoang dã đang nhanh chóng cạn kiệt. Chúng ta phải bảo đảm và bảo tồn nguồn gien quý giá này càng sớm càng tốt.

(còn tiếp)

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Đề án 06: Động lực xây dựng tỉnh nhà hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

(GLO)- Triển khai Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030, các cơ quan, ban, ngành, đơn vị phối hợp chặt chẽ để tháo gỡ những điểm nghẽn, khó khăn, bất cập nhằm thực hiện đúng tiến độ.

Pháo đài Đồng Đăng - kỳ 5: Sức sống thị trấn miền biên viễn

Pháo đài Đồng Đăng - kỳ 5: Sức sống thị trấn miền biên viễn

Tự hào là mảnh đất “phên dậu” của đất nước, nơi có các di tích lịch sử oai hùng như: Pháo đài Đồng Đăng, cửa khẩu Hữu Nghị cùng các danh lam thắng cảnh nổi tiếng, thị trấn Đồng Đăng (huyện Cao Lộc, Lạng Sơn) trỗi mình sau cuộc chiến biên giới 1979, trở thành điểm đến của du khách muôn phương.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Ở góc Tây Nam

Ở góc Tây Nam

Bà chủ homestay đầu tiên trên đảo Hòn Đốc (Kiên Giang) - Phương Thảo - kể hồi mới theo chồng ra đảo, ở đây cái gì cũng thiếu. Nước ngọt mỗi ngày đều phải chờ xà-lan chở từ Hà Tiên ra, mỗi nhà xách theo một can 30l ra cầu cảng nhận phát nước.

Người 'dò đường' cho lính 'mũ nồi xanh'

Người 'dò đường' cho lính 'mũ nồi xanh'

…Từ Nam Sudan, đất nước vẫn còn non trẻ và đầy rẫy bất ổn này, chúng tôi thấy những gam màu ảm đạm: màu vàng của sa mạc, màu nâu của bùn đất, màu đen của những khẩu súng và đặc biệt là hình ảnh vô cùng đáng thương của những đứa trẻ chăn bò.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Làng Quy Hòa, ngôi làng nhỏ nằm nép mình bên bờ biển Quy Nhơn, là nơi trú ngụ cho những bệnh nhân phong trong nhiều thập kỷ. Trải qua nhiều biến động, cùng với tiến bộ của y học, căn bệnh nan y ngày nào đã không còn là nỗi ám ảnh.