Vai trò của Nguyễn Nhạc ở Tây Sơn Thượng đạo

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News

(GLO)- Khi nhắc đến Tây Sơn Tam kiệt, hầu hết những người quan tâm đến lịch sử đều biết rằng những nhân vật và triều đại lẫy lừng ấy gắn liền với mảnh đất Tây Sơn Thượng đạo. Và, Nguyễn Nhạc là người có vai trò quan trọng ở giai đoạn đầu của phong trào Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII.

Tây Sơn Thượng đạo là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng. Vì thế, Nguyễn Nhạc đã chọn nơi đây làm nơi tụ nghĩa hưng binh. Năm 1771, tại Tây Sơn, Nguyễn Nhạc đã tập hợp được một lực lượng khá đông đảo và có thanh thế.

Theo ghi chép của sách “Đại Nam chính biên liệt truyện” do sử quán nhà Nguyễn soạn vào cuối thế kỷ XIX (thường gọi tắt là “Liệt truyện”), Nguyễn Nhạc “dựng đồn trại ở miền thượng đạo ấp Tây Sơn”, được nhiều người theo, “đi đến đâu thì hò hét ứng tiếp cho nhau thế lực ngày càng hăng mạnh, quan địa phương không thể kiềm chế được” (phần “Ngụy Tây truyện”, bản dịch của Viện Sử học, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1993). Giáo sĩ người Tây Ban Nha tên Diego de Jumilla, một nhân chứng đương thời cho biết quân Tây Sơn khi ấy là “kẻ cướp hiền lành” lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo.

Nghĩa quân Tây Sơn từ buổi đầu cho đến sau đó gồm nhiều thành phần, ngoài nông dân nghèo khó, còn có các trí thức, quan lại, phú nông, thổ hào, thương nhân, thảo khấu, hải tặc, thuật sĩ giang hồ… người Kinh, Thượng, Hoa, Chăm, Tây dương… Bản thân Nguyễn Nhạc là quan chức thu thuế (danh xưng Biện Nhạc), rồi buôn bán trầu giữa miền xuôi với miền núi (danh xưng Hai Trầu).

Tất cả được anh em Tây Sơn chiêu mộ cùng chung chí hướng: đánh đổ các thế lực, triều đại cũ thối nát, xây dựng một vương triều mới. Chính phương thức xây dựng lực lượng đặc biệt không câu nệ xuất thân này đã tạo nên sức mạnh to lớn cho quân Tây Sơn.

Khu di tích lịch sử Nền nhà-Hồ nước ông Nhạc được đầu tư xây dựng Nhà bia tưởng niệm, kè đá hồ nước và cổng khang trang, bề thế. Ảnh: Ngọc Minh

Khu di tích lịch sử Nền nhà-Hồ nước ông Nhạc được đầu tư xây dựng Nhà bia tưởng niệm, kè đá hồ nước và cổng khang trang, bề thế. Ảnh: Ngọc Minh

Với tư cách là những người thuộc triều đại đối địch với nhà Tây Sơn, các sử gia nhà Nguyễn đã xếp những người tham gia phong trào Tây Sơn vào hạng “vong mạng, vô lại”. Nhận xét này bị một số sử gia hiện đại như Nguyễn Phương phê phán: “Chúng ta không nên lấy làm lạ khi nghe những danh từ đầy tính cách thóa mạ đó, bởi vì nhà Nguyễn đã liệt Tây Sơn vào hạng ngụy. Chỉ nên ghi nhận như thế không được đúng” (“Việt Nam thời bành trướng: Tây Sơn”, Khai Trí xuất bản, 1967).

Cho đến nay, có thể nói sách “Nhà Tây Sơn” (xuất bản lần đầu năm 1988) của danh sĩ Quách Tấn (1910-1992) là tài liệu có lượng thông tin phong phú dày dặn nhất, tập hợp được cả sử liệu và truyền thuyết dân gian liên quan đến nhà Tây Sơn. Quách Tấn cũng thấy rõ vai trò của Nguyễn Nhạc: “Ông Nhạc cho khẩn hoang nhiều diện tích rộng lớn tại An Khê”, “những đồng bào mộ đi khai khẩn, phần đông trở thành nghĩa quân”, “đất Tây Sơn trở thành một nước nhỏ. Mọi tổ chức được thực hiện trong im lặng. Lòng dân địa phương lại hướng hoàn toàn về Nguyễn Nhạc” (Nhà xuất bản Thanh niên, 2016).

Năm 1773, Nguyễn Nhạc từ Tây Sơn thượng kéo xuống Kiên Thành xưng là “Đệ nhất trại chủ” cai quản huyện Phù Ly, Bồng Sơn mật ước với nữ chúa Chiêm Thành là Thị Hỏa lập trại ở Thạch Thành “để làm chỗ nương tựa viện trợ” và chiêu tập được nhiều tướng lĩnh khác đánh chiếm Quy Nhơn “dựng hiệu cờ Tây Sơn, chia đặt Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu 5 đồn” (Liệt truyện).

Nhưng các vị trí quan trọng khác của quân Tây Sơn lúc này chưa phải là Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, mà là thổ hào Nguyễn Thung làm “Đệ nhị trại chủ” cai quản huyện Tuy Viễn và phú hào Huyền Khê làm “Đệ tam trại chủ” phụ trách quân lương, “chiến đấu để vâng mệnh trời và theo lệnh Thượng Sư”.

Sử gia Nguyễn Phương đã khá tinh ý khi nhận xét: “Một ghi nhận sau hết ở đây, là bấy giờ Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ còn nấp dưới bóng anh cả, chưa đảm nhận chức vụ gì đáng kể, đang khi Nguyễn Thung và Huyền Khê là những nhân vật khá quan trọng của buổi đầu”.

Điều này không hẳn do bấy giờ Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ còn khá trẻ, 19-20 tuổi, mà có thể do Nguyễn Nhạc thấy lúc này cần phải tranh thủ sự góp sức của các lực lượng khác nên cần phân chia quyền lực ra bên ngoài để thu phục nhân tâm, tập trung sức mạnh.

Tiếp đó “Liệt truyện” cho biết Nguyễn Nhạc dẫn quân chinh chiến khắp nơi, “Quảng Ngãi trở vào Nam đến Bình Thuận đều là đất của Nhạc cả”. Năm 1776, Nguyễn Nhạc đắp thành Đồ Bàn, “tiếm xưng là Tây Sơn Vương, đúc ấn vàng”, “cho Lữ làm Thiếu phó, Huệ làm Phụ chính, còn các bọn khác đều cho làm quan chức”.

Năm 1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Thái Đức, “gọi thành Đồ Bàn là thành Hoàng Đế, lấy Lữ làm Tiết chế, Huệ làm Long Nhương tướng quân”. Năm 1780, Nguyễn Nhạc cùng Nguyễn Huệ tiến vào Nam đánh chiếm Gia Định, sau đó để tướng tá lại giữ đất, dẫn quân về Quy Nhơn.

Theo miêu tả của “Ngụy Tây truyện” thì: Chỉ từ khi vào Gia Định năm 1780 trở đi, vai trò của Nguyễn Huệ mới nổi trội. Nhất là sau khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc đánh chiếm Thăng Long thì việc phân chia quyền lực trong nội bộ anh em nhà Tây Sơn đã có sự thay đổi lớn: “Lấy từ núi Hải Vân trở ra ngoài thuộc về Huệ làm Bắc Bình vương, Gia Định thuộc về Lữ làm Đông Định vương, còn Nhạc tự xưng là Trung ương Hoàng đế”.

Theo đánh giá của sử gia Nguyễn Phương, từ cuối năm 1786 về trước (thời điểm “anh em Nhạc Huệ ở Bắc về và cắt giang sơn làm ba khu”), Nguyễn Nhạc là người toàn quyền, cầm trong tay vận mệnh của nhà Tây Sơn, có thể xem 2 chữ “Tây Sơn” bấy giờ như một quốc hiệu, dù Nguyễn Nhạc xưng đế, xây thành và không đặt tên nước.

Có lẽ bởi công lao xây dựng nền móng căn bản cho nhà Tây Sơn nên khi Nguyễn Huệ đột ngột qua đời năm 1792 khiến nhà Tây Sơn suy yếu, nhưng theo sử gia Nguyễn Phương, cái chết của Nguyễn Nhạc năm 1793 mới khiến cho nhà Tây Sơn đi đến bước sụp đổ. Bởi Vua Cảnh Thịnh kế ngôi Vua Quang Trung khi mới 10 tuổi, không đủ sức điều hành quốc gia đang đứng trước nhiều nguy cơ, biến cố.

Vua Cảnh Thịnh “phong con Nhạc là Bảo làm Hiếu công, cắt cho một huyện Phù Ly để làm ấp ăn lộc, gọi là Tiểu triều” và câu nói khích của mẹ ông Bảo được “Liệt truyện” ghi lại cũng thêm một sự khẳng định công lao, vai trò của Nguyễn Nhạc đối với triều đại Tây Sơn: “Khai thác cõi đất đều là công cha mày, nay chỉ ăn lộc có một huyện, nếu sống mà chịu nhục chẳng thà là chết còn hơn”. Đây cũng là câu nói báo hiệu kết thúc một triều đại.

Di tích Kho tiền ông Nhạc (làng Hlang, xã Yang Nam, huyện Kông Chro). Ảnh: Anh Minh

Di tích Kho tiền ông Nhạc (làng Hlang, xã Yang Nam, huyện Kông Chro). Ảnh: Anh Minh

Tập sách “The Tây Sơn Uprising” (Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, xuất bản năm 2006, được dịch ra tiếng Việt năm 2019) của Giáo sư người Mỹ George Dutton gần đây mặc dù còn một số nhận định lệch lạc về phong trào Tây Sơn, nhưng khi viết về chính sách xây dựng lực lượng của Nguyễn Nhạc cũng cho thấy tầm quan trọng của Tây Sơn vương: “Thật vậy, cũng nguồn tư liệu trên viết rằng trong những yếu tố khác nhau, chính nỗi sợ hãi đối với người lãnh đạo Tây Sơn là Nguyễn Nhạc đã dẫn đến những thắng lợi ban đầu của quân Tây Sơn” (mục “Việc khai thác: bắt lính và khổ dịch”).

Như vậy, trong số các tài liệu ghi chép về phong trào Tây Sơn, đã có nhiều ý kiến, cả xưa và nay, trong và ngoài nước, công nhận vai trò gầy dựng, sáng lập, tiên phong của Nguyễn Nhạc đối với vương triều Tây Sơn. Ở đây chúng tôi không phát hiện, không lật lại lịch sử, mà chỉ muốn tái khẳng định lại những điều đó. Dấu tích và tên tuổi của Nguyễn Nhạc tại An Khê sau mấy thế kỷ vẫn dày đậm trong ký ức dân gian địa phương với các địa danh: Hòn đá ông Nhạc, Hồ nước ông Nhạc, Nền nhà ông Nhạc, Kho tiền ông Nhạc, núi Hoàng Đế, Hòn Nhược, Lũy ông Nhạc, Yă Đố…

Vai trò to lớn của Nguyễn Huệ đối với nhà Tây Sơn cũng như đối với lịch sử Việt Nam đương nhiên không thể phủ nhận, nhất là công lao giữ nước, đánh đuổi quân xâm lược của Vua Quang Trung. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta thiếu khách quan và công bằng trong việc đánh giá vai trò giữ đất, sáng lập vương triều Tây Sơn của Nguyễn Nhạc tại Tây Sơn thượng, nhất là khi nơi đây trở thành quần thể di tích quốc gia đặc biệt. Chính những nét riêng biệt này tạo nên giá trị và sự đặc sắc, thu hút người dân và du khách đến với Tây Sơn Thượng đạo.

Có thể bạn quan tâm

Ký ức của ba

Ký ức của ba

Bảng khám bệnh điện tử hiển thị con số 106, tôi ngó quanh quất tìm ba tôi. Ông già lại đi lung tung đâu đó. Tôi hớt hải chạy quanh sảnh bệnh viện: “Kia rồi”, chiếc áo kaki màu xanh bộ đội.

Thơ Hà Hoài Phương: Những ngôi sao xanh

Thơ Hà Hoài Phương: Những ngôi sao xanh

(GLO)- Hình ảnh "những ngôi sao xanh" trong thơ Hà Hoài Phương tượng trưng cho ánh sáng hy vọng không bao giờ tắt, dẫu rằng có bao nhiêu khó khăn, thử thách hay bóng tối bao phủ. Những ngôi sao ấy là niềm tin, sức mạnh tinh thần giúp con người vượt qua mọi gian truân cuộc sống...

Những món đồ cũ

Những món đồ cũ

(GLO)- Mỗi lần sắp xếp lại đồ đạc trong nhà, tôi thường tần ngần ngắm nhìn những món đồ cũ. Những đồ vật vốn vô tri, nhưng khi gắn với cuộc sống con người thì chúng trở nên có hồn và có thể gợi lại những câu chuyện, kỷ niệm khó quên.

Thơ Nguyễn Đình Phê: Gửi lại

Thơ Nguyễn Đình Phê: Gửi lại

(GLO)- Bài thơ "Gửi lại" của Nguyễn Đình Phê là một tác phẩm đầy hoài niệm, suy tư về thời gian, tình yêu và sự chia ly. Xoay quanh cảm giác tiếc nuối, luyến lưu một mối tình đã qua, những kỷ niệm khó quên, tác giả muốn gửi lại cho người yêu hay cho chính mình?

Tiến sĩ Lưu Hồng Sơn bên một bức tranh của họa sĩ Xu Man tại Bảo tàng tỉnh. Ảnh: P.D

Tranh Xu Man: Di sản tìm về

(GLO)- Từ chỗ chỉ sở hữu số lượng tác phẩm rất ít ỏi của họa sĩ Xu Man, hiện nay, Bảo tàng tỉnh Gia Lai đang có một bộ sưu tập dày dặn với tổng cộng 52 bức của người họa sĩ tài danh, nhiều nhất trong hệ thống bảo tàng cả nước.

Hình dung

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Hình dung

(GLO)- Bài thơ "Hình dung" của Nguyễn Ngọc Hưng là một tác phẩm đẹp, đậm chất mộng mơ và lãng mạn. Nó thể hiện một tình yêu vĩnh cửu, dường như không thể chạm vào, nhưng vẫn mãnh liệt và đầy khắc khoải...

Thương hoài bếp lửa

Thương hoài bếp lửa

(GLO)- Ở quê, mẹ tôi vẫn dùng bếp củi. Mỗi lần về quê, tôi rất thích ngồi bên bếp lửa ấy, thi thoảng lại dụi đầu vào vai mẹ. Ngọn lửa tí tách reo vui gọi về trong tôi biết bao kỷ niệm ấu thơ.

Thân Thương loài hoa của núi - Dã quỳ

Thân thương loài hoa của núi

(GLO)- Khi những cơn mưa cuối mùa khép lại báo hiệu mùa khô Tây Nguyên đã đến, những dải hoa dã quỳ (còn có tên cúc quỳ, sơn quỳ, quỳ dại,…) bắt đầu vươn mình khoe sắc. Những đóa hoa dã quỳ nhỏ bé, tràn đầy năng lượng và sức sống, tạo nên những dải sóng đồi vàng rực, mê hoặc lòng người.

Trao giải Cuộc thi đan lát, dệt thổ cẩm truyền thống tạo ra các sản phẩm lưu niệm phục vụ du khách

Trao giải Cuộc thi đan lát, dệt thổ cẩm truyền thống tạo ra các sản phẩm lưu niệm phục vụ du khách

(GLO)- Nằm trong khuôn khổ Tuần lễ hoa dã quỳ-núi lửa Chư Đang Ya, chiều 9-11, tại khu vực sân nhà rông làng Gri, xã Chư Đang Ya (huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai), Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND huyện Chư Păh tổ chức trao giải Cuộc thi đan lát, dệt thổ cẩm truyền thống.

Trải nghiệm lễ hội dân gian Tây Nguyên

InfographicTrải nghiệm lễ hội dân gian Tây Nguyên

(GLO)- Phục dựng lễ mừng lúa mới giúp du khách đến với Lễ hội Hoa Dã quỳ-Núi lửa Chư Đang Ya có cơ hội trải nghiệm một trong những lễ hội dân gian độc đáo nhất của cư dân nông nghiệp Trường Sơn-Tây Nguyên.

Minh họa: HUYỀN TRANG

Nhớ mùa cà phê

(GLO)- Lâu lắm rồi, tôi mới có 1 ngày nghỉ rớt vào giữa tuần. Vui vẻ tận hưởng ngày nghỉ đột xuất cũng là một cách để hưởng thụ cuộc sống. Tôi lấy điện thoại ra gọi bạn. Sau một hồi chuông dài, tôi nghe tiếng bạn giữa vô số thanh âm ồn ào. Bạn nói đang bận hái cà phê.

Tặng em nỗi nhớ ngược chiều

Thơ Từ Dạ Linh: Tặng em nỗi nhớ ngược chiều

(GLO)- "Tặng em nỗi nhớ ngược chiều" của Từ Dạ Linh mang vẻ đẹp mộc mạc, đầy hoài niệm về tuổi thơ, về những khoảnh khắc hồn nhiên mà người ta thường dễ dàng quên đi. Ẩn chứa trong đó cũng là nỗi nhớ, sự lưu luyến về tình yêu đầu đời với những xúc cảm tinh khôi, thuần khiết...

Đề nghị xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia địa điểm vụ thảm sát nhân dân làng Tân Lập năm 1947

Đề nghị xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia địa điểm vụ thảm sát nhân dân làng Tân Lập năm 1947

(GLO)- Sáng 6-11, tại TP. Pleiku, Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai tổ chức hội thảo khoa học di tích lịch sử “Địa điểm vụ thảm sát nhân dân làng Tân Lập năm 1947 xã Kông Bờ La, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai” nhằm hoàn thiện hồ sơ, trình cấp có thẩm quyền đề nghị xếp hạng di tích quốc gia.

Các nghệ nhân làng Chuet 2 (phường Thắng Lợi) phục dựng lễ báo hiếu cha mẹ tại Làng Văn hóa-Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ảnh: Thu

Lễ báo hiếu của người Jrai

(GLO)- Lễ báo hiếu cha mẹ là tập tục văn hóa truyền thống đã có từ xa xưa trong đời sống của cộng đồng người Jrai. Đây là dịp để những người con đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục và cầu mong thần linh ban sức khỏe cho cha mẹ.