Pagang kala, cọc dấu quyền năng sinh tồn

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Một tổ ong rừng mới được phát hiện. Alăng Lai, chàng trai Cơ Tu ở xã Jơ Ngây (Đông Giang) vớ lấy một nhánh cây gần đó, chẻ phần đầu, đặt thêm một đoạn cây khác nhỏ hơn theo hình chữ thập, rồi cắm thẳng xuống đất. Vị trí Alăng Lai đánh dấu này là gốc cây có đàn ong làm tổ nhằm thông báo với mọi người về… quyền sở hữu của mình, theo phong tục văn hóa Cơ Tu.
Cọc dấu được Alăng Lai cắm cạnh gốc cây nơi phát hiện tổ ong rừng. Ảnh: ĐĂNG NGUYÊN

Cọc dấu được Alăng Lai cắm cạnh gốc cây nơi phát hiện tổ ong rừng. Ảnh: ĐĂNG NGUYÊN

Alăng Lai nói với tôi, kinh nghiệm quan sát cho thấy tổ ong vừa phát hiện còn nhỏ, chưa đủ thời gian khai thác. Vì thế, bằng ký hiệu này sẽ giúp tổ ong được giữ lâu, ngăn việc khai thác bừa bãi, gây ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của ong rừng.

“Như tổ ong này, mình là người phát hiện trước. Nếu chưa khai thác, sẽ làm ký hiệu để người sau biết là tổ ong này đã có chủ, từ đó không tự ý khai thác, xâm phạm gây mất đoàn kết cộng đồng. Người Cơ Tu gọi đó là pagang kala hoặc clặ zdư” - Alăng Lai chia sẻ.

1. Alăng Lai thuộc thế hệ người trẻ Cơ Tu khá am hiểu văn hóa cộng đồng. Câu chuyện “người sở hữu” quà tặng của mẹ thiên nhiên, qua lời kể của anh hiện rõ sự rành mạch, mang triết lý nhân văn sinh động về cuộc sống cộng đồng.

Alăng Lai nói, đó là nét đẹp truyền thống, thể hiện sự tôn trọng và nhường nhịn lẫn nhau. Sống chung dưới bàn tay bảo bọc của mẹ rừng, người ta tin rằng, những người làm việc xấu sẽ bị phạt vạ bởi mắt thần quyền năng, cuộc sống chịu nhiều cực khổ, cay nghiệt.

Vùng cao đang vào mùa “săn” mật ong rừng. Những chuyến đi phía núi, cứ thế dài thêm theo nhịp đời mưu sinh. Như món quà quý được mẹ thiên nhiên ban tặng, hành trình “săn” mật ong rừng cũng lắm gian nan, vất vả.

Nhiều chuyến đi, với Alăng Lai và anh em trong làng, có khi là về tay không vì “một vài tổ ong đã có chủ”. Luật bất thành văn, khi phát hiện có ký hiệu của người đi trước, mặc nhiên không ai được quyền xâm phạm. Đạo lý đó được người Cơ Tu truyền dạy con cháu, như quy ước chuẩn mực về phẩm giá con người trước bản năng sinh tồn.

Người Cơ Tu rất trọng chữ tín. Vì thế, pagang kala như một biểu thị về sự tôn trọng con người, cũng như đề cao vai trò và nguyên tắc cộng đồng.

“Ngày xưa muông thú còn nhiều, người Cơ Tu thường mưu sinh bằng việc săn bắt. Có một quy định mà sau này thành luật riêng cộng đồng, là người ngoài làng hoặc không phải chủ nhân của những chiếc bẫy, chiếc kẹp thì nhất định không được tháo dỡ, mang con thú về. Đó là sự tối kỵ, làm trái với luật làng. Nếu bị phát hiện, không những bị quở mắng, mà còn phải nộp phạt, xin lỗi công khai trước cộng đồng” - Alăng Lai nói trên đường chúng tôi trở ra từ rừng.

2. Hôm trước, tôi ngồi với già Alăng Đàn (ở thôn Bh’lô Bền, xã Sông Kôn, Đông Giang) để nghe ông giải nghĩa về những câu lý Cơ Tu. Dưới ngôi moong truyền thống, câu chuyện bất ngờ lan sang văn hóa giữ rừng, cách ứng xử của người Cơ Tu với mẹ thiên nhiên.

Ông Đàn nói, ngày trước, mặc dù diện tích rừng còn rộng, muông thú còn nhiều nhưng người vùng cao khai thác rất chừng mực. Bởi người vùng cao quan niệm, rừng như người mẹ chung nên phải ra sức bảo vệ, nhất là lối ứng xử tôn thờ quy luật tự nhiên.

Già Alăng Đàn khẳng định tục pagang kala vẫn tồn tại trong cộng đồng vùng cao. Ảnh: ĐĂNG NGUYÊN

Già Alăng Đàn khẳng định tục pagang kala vẫn tồn tại trong cộng đồng vùng cao. Ảnh: ĐĂNG NGUYÊN

Điều đó giải thích vì sao người vùng cao thường ít tác động đến rừng già. Ngay cả việc cần chặt cây gỗ để dựng nhà cửa, làm chuồng trại hay công trình cộng đồng cũng đều thông qua hội đồng già làng. Chính già làng là người quyết định mọi công việc, sau khi tham khảo hết ý kiến của cộng đồng. Như nét đẹp truyền đời, tục pagang kala thể hiện tinh thần cố kết, nhường nhịn nhau trong lối sống cộng cư miền núi.

“Khi một người nào đó cắm cây làm dấu, tức là thông báo với mọi người về sự có mặt của họ, ngầm khẳng định quyền được làm chủ về một sự việc nào đó. Có thể là tổ ong, bụi mây hay một thân cây gỗ mọc sâu trong rừng. Điều đặc biệt, cọc dấu này được cộng đồng tôn trọng và đồng ý” - già Alăng Đàn nói.

Câu chuyện của ông Đàn, bất chợt làm tôi nhớ lúc ngồi với già làng Y Kông cách đây ít tháng. Người vợ mất sau thời gian chống chọi với bệnh tật, sắc mặt của già Y Kông dù đã có nhiều khởi sắc, song vẫn hiện rõ sự trầm tư của một lão làng. Hôm đó, ông kể về chuyện cây dó bầu ở những cánh rừng của xã Ba.

Trên tay, cầm sẵn một pho tượng đã úa màu khói bếp, được tạc từ trầm. Hàng chục năm trước, nhiều cánh rừng ở xã Ba, quê hương của già Y Kông, người ta phát hiện có trầm. Chính xác là cây dó bầu, mọc rải rác trong rừng sâu.

Nhưng, vì câu chuyện này, mà đến bây giờ già Y Kông vẫn luôn day dứt. Ông nói, đó là những tháng năm ông mắc phải sai lầm, khi dẫn đường cho người lạ đi cưa cây dó, lấy trầm.

Những vết cắt vạt sâu vào thân cây dó ngày càng nhiều, như cách làm dấu của cộng đồng vùng cao. Như thế, đồng nghĩa với việc nơi này đã có dấu hiệu sở hữu của những người đến trước, theo quan niệm của đồng bào Cơ Tu, người tới sau không được xâm phạm. Chính điều đó vô tình khiến cây dó bầu dần biến mất khỏi cánh rừng xã Ba, như bây giờ.

3. Có lần, tôi hỏi mẹ, bây giờ người Cơ Tu ở quê núi có còn giữ văn hóa pagang kala nữa không? Mẹ tôi cười, nói đó là truyền thống tốt đẹp nên không thể mất đi. Cuộc sống sinh tồn dưới cánh rừng Trường Sơn càng khiến người vùng cao tôn trọng hơn quy tắc cộng đồng.

Những cọc dấu không chỉ là thông báo về những phát hiện, mà xa hơn và tồn tại cho đến bây giờ, trở thành những ký hiệu riêng trong phân chia ranh giới làng, ranh giới đất sản xuất, đất ở được cộng đồng tôn trọng.

Từ ngàn xưa và cho đến bây giờ, người vùng cao vẫn thường dùng những ký hiệu hoặc địa hình tự nhiên để tạo ranh giới. Điển hình nhất là hàng cây, bụi tre, con suối… được quy ước theo lệ làng.

Cách người Cơ Tu làm dấu khẳng định... “chủ quyền”. Ảnh: ĐĂNG NGUYÊN

Cách người Cơ Tu làm dấu khẳng định... “chủ quyền”. Ảnh: ĐĂNG NGUYÊN

Mẹ tôi kể, ngày trước, người Cơ Tu thường canh tác chủ yếu trên cánh rẫy ở sâu trong rừng già. Trước mùa phát rẫy, từng hộ dân lặn lội vào trong rừng sâu, tìm kiếm mảnh đất phù hợp để làm khu sản xuất mới.

Trên mảnh đất được chọn, họ dùng cọc gỗ để làm ký hiệu clặ k’tiếc - hàm nghĩa đất đã có chủ. Vị trí đó, nếu người khác trong làng muốn phát rẫy, phải xin phép và có sự đồng ý của “chủ đất” mới được quyền canh tác.

Câu chuyện pagang kala, qua lời kể của mẹ còn mang thêm ý nghĩa khác, là thông báo sự việc bất bình trong cuộc sống. Khi hoa màu của một hộ dân nào đó trong làng bị trâu bò, heo phá hại, người ta sẽ mang những phần bị hư hại đó cắm ở sân gươl để thông tin cho cả làng biết, từ đó ý thức hơn trong việc chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ký hiệu clặ zdư còn được dùng rộng rãi trong việc thông báo khúc sông, đoạn suối được chọn để nuôi cá tự nhiên, tránh sự xâm phạm của người khác.

Thẳm sâu trong đôi mắt của mẹ, tôi cảm giác được điều gì đó rất lạ. “Bây giờ đất chung không còn nhiều nữa. Lợi ích kinh tế đang khiến những mâu thuẫn cộng đồng ngày càng phức tạp hơn. Tập tục pagang kala biết đâu sau này cũng sẽ mất dần, lúc đó tình đoàn kết cũng không còn được như trước nữa” - mẹ tôi nói với sự trăn trở của một cụ bà từng trải.

Miên man trong câu chuyện của mẹ, tôi nghĩ xa hơn về những cuộc tranh chấp, xung đột đất đai diễn ra thời gian qua ở miền núi. Không còn sự “nhường nhịn” như trước đây nữa, vì cơm-áo-gạo-tiền, nhịp sống mới đang ngày dần đổi khác và tình người cũng khác đi. Nhưng, dù sao, điều an ủi tôi lúc này, là những bất ổn đó, không quá lớn như chuyện được kể dưới xuôi…

Có thể bạn quan tâm

Trở về nẻo thiện

Trở về nẻo thiện

Hiểu được không nơi nào bằng, yên bình như buôn làng, những già làng, người có uy tín ở Gia Lai kiên trì đêm ngày vận động, giải thích cho người dân không nghe theo lời dụ dỗ của “Tin lành Đê Ga”.

Căn nhà của bà Đào bị đổ sập hoàn toàn trước cơn lũ dữ.

Những phận người ở rốn lũ Tuy Phước

(GLO)- Chỉ trong vòng nửa tháng, người dân vùng rốn lũ Tuy Phước phải gồng mình gánh chịu 2 đợt bão lũ lịch sử. Bên cạnh những căn nhà trơ trọi sau lũ, những phận người trắng tay vẫn cố gắng gượng dậy, với hy vọng được dựng lại mái ấm và cuộc sống yên bình.

Chuyện cổ tích của buôn làng

Chuyện cổ tích của buôn làng

(GLO)- Ở làng Tươl Ktu (xã Đak Đoa), khi nhắc đến vợ chồng bác sĩ Nay Blum - H’Nơn, người dân nơi đây luôn kể về họ như kể lại những câu chuyện cổ tích. Với họ, đôi vợ chồng bác sĩ ấy là quà của Yang tặng cho làng Tươh Ktu.

Chiêu trò “việc nhẹ, lương cao”: Vỏ bọc tội phạm mua bán người - Kỳ cuối: Cùng ngăn chặn tội ác

Chiêu trò “việc nhẹ, lương cao”: Vỏ bọc tội phạm mua bán người - Kỳ cuối: Cùng ngăn chặn tội ác

(GLO)- Các cơ quan chức năng, nhất là ngành Công an, chính quyền địa phương là lực lượng chủ công trong phòng, chống mua bán người. Tuy nhiên, toàn xã hội cũng phải cùng vào cuộc và quan trọng nhất là mỗi cá nhân phải chủ động bảo vệ mình bằng cách nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật.

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

null