Nông dân xã Ia Tô “đưa bò vào chuồng”

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Từ chỗ chăn thả rông trên núi, đến nay, 100% đàn bò của xã Ia Tô (huyện Ia Grai) đã được nuôi nhốt trong chuồng. Việc nuôi nhốt giúp đàn bò được chăm sóc tốt hơn, người dân lại tận thu được nguồn phân bón và tránh được tình trạng mất trộm.

Đổi phân lấy... chuồng

Phải hẹn trước, chúng tôi mới gặp được một số hộ dân ở làng Krung, xã Ia Tô. “Bình thường thì khoảng hơn 8 giờ sáng, bà con trong làng lùa bò ra đồng rồi. Do hôm nay cán bộ thú y xã dặn ở nhà để gặp các anh nên bà con đi muộn đấy. Chụp ảnh thì ra chuồng bò nhanh lên để còn cho nó đi ăn”-ông Puih Mur nói với chúng tôi.

Đó là cái chuồng bò nằm sau vườn nhà với chiều rộng tầm 7 m, chiều dài hơn 10 m được chia ra làm 2 ngăn: Một ngăn nhốt 12 con bò lớn bé, ngăn nhỏ hơn dùng để đựng phân bò. Ông Mur cho biết, cái chuồng bò này được làm cách đây 2 năm, cũng là chừng ấy năm đàn bò của gia đình ông chính thức có “nhà” để ở.

Còn trước đó, gia đình ông cũng như bao hộ khác ở làng Krung hay cả xã Ia Tô chỉ quây lưới làm hàng rào để bò đi ăn về thì vào đó, đêm mưa lạnh không có mái che, sinh ra dịch bệnh. Bò chết mà bà con không biết chết vì bệnh gì.

Việc nuôi nhốt giúp người dân tận thu được nguồn phân bón, đàn bò được chăm sóc tốt hơn và tránh được tình trạng mất trộm. Ảnh: T.B.Đ

Việc nuôi nhốt giúp người dân tận thu được nguồn phân bón, đàn bò được chăm sóc tốt hơn và tránh được tình trạng mất trộm. Ảnh: T.B.Đ

Nói về cái chuồng bò hiện tại, ông Mur chia sẻ: “Mình không làm đâu, anh em người Kinh họ làm giúp đấy. Cũng không biết là làm cái chuồng này hết bao nhiêu tiền, chỉ biết là lượng phân bò thải ra thì mình lấy một nửa để bón cho cây, còn một nửa thì trả công làm chuồng”.

Cũng theo ông Mur: Khoảng sau 8 giờ sáng, đàn bò được thả ra đồng ăn cỏ, ở nhà có người dọn dẹp, vệ sinh chuồng. Phân được cào từ ngăn nhốt bò sang ngăn chứa riêng. Thỉnh thoảng, gia đình lại tìm vỏ trấu, vỏ cà phê hoặc cắt cỏ băm nhỏ trộn vào phân bò làm phân bón cho cây trồng.

Cũng ở làng Krung, gần 3 năm trước, gia đình anh Puih Blíu đã đổi phân để lấy... chuồng nuôi 14 con bò. Hình thức chuồng bò của nhà anh Blíu cũng giống như của ông Mur. Trước đây, đàn bò của gia đình anh Blíu tối về thả rông ngoài vườn, lượng phân rơi vãi tận dụng không được bao nhiêu. Còn bây giờ thì phân bò đủ bón cho ruộng lúa nước, khoảng 2 sào cà phê và 300 cây điều, sầu riêng.

“Nhờ lượng phân bò này mà ruộng lúa, vườn cây của gia đình tốt hơn. Bên cạnh đó, mình không tốn tiền mua phân bón, vườn nhà cũng sạch sẽ hơn”-anh Blíu cho biết.

Anh Rơ Châm A Lang-Trưởng thôn Krung-cho hay: “Với cách làm đổi phân lấy chuồng mà làng Krung đã khang trang, sạch sẽ hơn trước rất nhiều. Cả làng có 140 hộ thì khoảng 80% hộ chăn nuôi bò. Trong đó, chỉ còn 2 hộ chưa làm được chuồng kiên cố”.

Đưa bò xuống núi

Anh A Lang là người làng khác, “bắt vợ” ở làng Krung và ở lại đây luôn. Sinh năm 1986 nhưng A Lang đã làm trưởng thôn từ nhiều năm nay, có lẽ do anh có đi học và quan trọng hơn là hiểu việc làng cứ như là việc nhà của mình vậy.

Anh A Lang kể: Ngày trước, dân làng Krung chỉ biết thả rông bò trên núi. Lúc anh mới nhận chức trưởng thôn, cả làng có khoảng 600 con bò, ngày lang thang gặm cỏ, khát nước thì xuống suối, trưa nắng thì đầm mình dưới những khe suối cạn. Thứ bảy hàng tuần, người làng lũ lượt kéo nhau lên núi để kiểm đếm bầy bò.

Mỗi lần lên núi thăm bò, bà con thường mang theo muối cho chúng ăn và để bò làm quen với chủ, không lẫn với bò của gia đình khác. “Mỗi khi lên núi, lúc cho bò ăn muối, hễ con bò nào đi theo ai thì là của gia đình đó. Chắc do lên thăm hàng tuần nên bò... nhớ mùi mồ hôi của chủ”-anh A Lang nói.

Cũng theo anh A Lang, có không ít trường hợp bò bị lạc và mất luôn. Có lần bò lang thang trong núi, “ghé” vào rẫy mì của làng khác ăn trụi. Người làng bên khiêng rượu sang làng Krung để kiện. Dân làng Krung đền cho làng bên bằng cách đếm đầu bò của cả làng để đền, nhà nào ít bò thì đền ít, nhà nhiều bò thì đền nhiều.

“Bởi có biết bò của nhà ai vào phá rẫy mì làng bên đâu nên cả làng cùng góp lại đền. Nhớ có lần, cả làng phải góp trên 100 triệu đồng để đền cho mấy rẫy mì làng bên”-Trưởng thôn Krung kể.

Người dân xã Ia Tô nuôi nhốt bò cho nhiều lợi ích. Ảnh: T.B.Đ

Người dân xã Ia Tô nuôi nhốt bò cho nhiều lợi ích. Ảnh: T.B.Đ

Cũng có trường hợp bò bị dính bẫy hoặc có con vì “tham ăn” mà chui đầu vào khe đá gặm cỏ non, mắc kẹt không thoát ra được. Cuối tuần lên thăm, thấy bò chết, bà con xẻ thịt ăn uống tại chỗ, một phần thịt để dành đưa về làng cho những người hôm ấy không lên núi thăm bò.

Theo anh A Lang: “Nuôi bò trên núi là tập quán của bà con từ xưa đến giờ. Tuy không mất công chăn thả nhưng không hiệu quả bằng phương thức ngày thả đi ăn, tối lùa về nhốt ở chuồng nhà. Nuôi bò nhốt chuồng không bị mất trộm, lại quản lý được dịch bệnh, còn tận dụng được nguồn phân bón cho cây trồng nữa”.

Biết là vậy nhưng vận động bà con làm chuồng bò là rất khó. Chỉ đến khi các doanh nghiệp tổ chức trồng keo trên núi, đồng cỏ cạn dần, bà con mới lục tục đưa bò về làng, nhưng tối đến cũng chỉ thả rông trong vườn nhà. Anh Võ Thư Hoàng-Nhân viên thú y xã Ia Tô-thông tin: “Chỉ khoảng 3 năm trở lại đây, sau nhiều lần vận động, bà con mới bắt đầu làm chuồng kiên cố để nhốt bò, lấy phân bò bón ruộng lúa, vườn cây và để tiêm phòng dịch bệnh”.

Anh Hoàng từng là bộ đội của Quân đoàn 3. Năm 1998, sau khi ra quân, do có kiến thức về chăn nuôi bò lúc còn ở trong quân ngũ, anh được xã tín nhiệm phân công phụ trách công tác thú y. Anh Hoàng cho biết, khoảng 3 năm trước, đàn bò của làng Krung có khoảng 350 con, giờ còn trên 200 con. Đàn bò của làng giảm là do bà con bán dần để đầu tư vào vườn cây và xây nhà kiên cố.

Cũng theo anh Hoàng: Trước đây, mỗi năm, đàn bò của bà con được tiêm phòng 3 lần gồm 2 mũi lở mồm long móng, 1 mũi tụ huyết trùng; nay chỉ tiêm 1 mũi tụ huyết trùng và 1 mũi lở mồm long móng. Nhờ được nuôi nhốt trong chuồng sạch sẽ nên đàn bò của xã Ia Tô không xuất hiện dịch bệnh, mang lại nguồn thu đáng kể cho bà con.

Ông Ngô Nhạc Lâm-Viên chức phụ trách thú y thuộc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Ia Grai-cho biết: Toàn huyện có đàn bò trên 15 ngàn con (khoảng 10% bò lai). Hiện trên 90% số hộ có bò đã làm chuồng nuôi kiên cố và khoa học. Kết quả trên là nhờ vào công tác tuyên truyền, vận động của ngành Nông nghiệp và chính quyền địa phương.

“Từ khi có chuồng nuôi nhốt, đàn bò của huyện không có trường hợp bị chết do ăn phải mủ cao su. Bên cạnh đó, công tác thú y được thực hiện bài bản. Từ năm 2018 đến nay, huyện chưa phát hiện ổ dịch nào trên đàn bò”-ông Lâm thông tin.

Có thể bạn quan tâm

UBND tỉnh quyết định tạm ứng hơn 4,4 tỷ đồng để hỗ trợ ổn định đời sống các chủ tàu cá không đủ điều kiện khai thác thủy sản trên địa bàn tỉnh.

Tạm ứng hơn 4,4 tỷ đồng hỗ trợ chủ tàu cá không đủ điều kiện khai thác thủy sản

(GLO)- Phó Chủ tịch UBND tỉnh Dương Mah Tiệp vừa ký quyết định tạm ứng kinh phí hỗ trợ ổn định đời sống đối với các chủ tàu cá không đủ điều kiện tham gia khai thác thủy sản trên địa bàn tỉnh. Theo đó, tỉnh sẽ tạm ứng hơn 4,4 tỷ đồng để triển khai chính sách hỗ trợ.

Tích cực phát huy tiềm năng nông sản Gia Lai

Tích cực phát huy tiềm năng nông sản Gia Lai

(GLO)- Ngày hội Nông sản tỉnh Gia Lai lần thứ I gắn với Hội thi sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu năm 2025 (diễn ra từ ngày 17 - 19.10 tại phường Pleiku) là sự kiện nông nghiệp nổi bật, thu hút sự quan tâm của đông đảo nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Chứng chỉ VFCS/PEFC giúp sản phẩm từ rừng của Công ty TNHH Lâm nghiệp Sông Kôn có giá trị kinh tế cao khi tiêu thụ trên thị trường trong và ngoài nước. Ảnh: N.N

Phó Giám đốc VFCO Nguyễn Hoàng Tiệp: Chứng chỉ rừng đảm bảo lợi ích cho người trồng và doanh nghiệp

(GLO)- Chứng chỉ rừng giúp nâng giá trị gỗ, hỗ trợ kỹ thuật cho người trồng và tạo nguồn nguyên liệu đạt chuẩn cho doanh nghiệp. Xung quanh vấn đề này, P.V Báo và phát thanh, truyền hình Gia Lai đã trao đổi với TS. Nguyễn Hoàng Tiệp-Phó Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững (VFCO).

Nghề nuôi cá lồng bè trên sông Sê San đã tạo nên diện mạo mới cho vùng sông nước phía Tây Gia Lai.

"Xanh hóa" sinh kế vùng sông nước

(GLO)- Nghề nuôi cá lồng bè đang mang lại sinh khí mới cho vùng sông nước phía Tây Gia Lai, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng mặt nước, thúc đẩy nông nghiệp xanh và hình thành thương hiệu “cá sạch Tây Gia Lai”. Đây được xem là hướng phát triển bền vững, tạo sinh kế cho nhiều người dân địa phương.

Năng lượng tái tạo là lĩnh vực tiềm năng của tỉnh Gia Lai, đóng góp lớn vào sản lượng điện của quốc gia. Ảnh: Vũ Thảo

Nền tảng cho công thương nghiệp Gia Lai bứt phá

(GLO)- Sự kết hợp giữa lợi thế của cao nguyên đất đỏ bazan và tiềm năng vùng ven biển đang mở ra cơ hội để Gia Lai vươn lên trở thành cực tăng trưởng mới của miền Trung-Tây Nguyên, nhất là trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao gắn với công nghiệp chế biến, xuất khẩu và logistics.

Khẩn trương phục hồi rừng dương An Lương

Khẩn trương phục hồi rừng dương An Lương

(GLO)- Hơn 1 năm qua, hàng nghìn cây dương dọc tuyến tỉnh lộ 639 thuộc xã An Lương dần bị chết khô. Trước thực trạng này, UBND xã phối hợp với ngành chức năng kiểm tra, xác định nguyên nhân và triển khai các biện pháp trồng dặm nhằm duy trì chức năng phòng hộ ven biển.

 Gia Lai cấp 255 mã vùng trồng xuất khẩu sang Trung Quốc

Gia Lai cấp 255 mã vùng trồng xuất khẩu sang Trung Quốc

(GLO)- Tại hội nghị sơ kết công tác 9 tháng năm 2025 và triển khai nhiệm vụ trọng tâm 3 tháng cuối năm 2025, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Gia Lai) cho biết toàn tỉnh đã cấp 255 mã số vùng trồng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc với hơn 10.200 ha.

null