Nỗi buồn làng chiếu

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Từng suy rồi thịnh, từng có cả trăm hộ làm nghề nhưng rồi bây giờ khung dệt bụi phủ, tay người chênh chao. Nỗi niềm của làng chiếu chẳng mấy người thấu tỏ khi chỉ duy nhất một bà lão còn dệt chiếu, nhưng cũng đầy chông chênh.

Gió buồn lay đồng cói

Làng Cẩm Nê (xã Hòa Tiến, Hoa Vang, Đà Nẵng) giờ đã khác khi đời sống người dân khấm khá hơn rất nhiều, bao quanh vẫn là đồng lúa đang chín vàng và chon von những ngôi nhà 2-3 tầng rợp bóng cây xanh. Làng từng nổi tiếng với nghề dệt chiếu, có những chiếc chiếu đặc biệt dệt để tiến vua. Người làng trong câu chuyện mỗi tối, vẫn cứ nhớ về cha ông mình với câu chuyện về một chiếc chiếu hoa được tiến kinh ngày trước. Chiếu rộng 2,5 mét và dài tới 25 mét, được những người dệt chiếu lão luyện làm trong gần một tháng. Nhờ chiếc chiếu ấy, người làng đã được ban thưởng trọng hậu và sau kỳ tích đó, tiếng tăm chiếu Cẩm Nê đã bay đi khắp nước.

Làng chiếu Cẩm Nê một thời hoàng kim, giờ chỉ còn một hộ dệt chiếu.

Làng chiếu Cẩm Nê một thời hoàng kim, giờ chỉ còn một hộ dệt chiếu.

Tôi vào làng, người xứ ruộng đồng quê kiểng chân chất như bao đời qua. Thủng thẳng trong câu chuyện của làng, nhiều người già vẫn mộng tưởng về thời quá vãng vàng son cách đây mấy trăm năm. Có nguồn gốc từ Thanh Hóa, lúc Vua Lê Thánh Tông mở đất về phương Nam, nhiều người đã ở lại đây sinh sống, mang theo nghề dệt chiếu. Hơn 500 năm, nghề làm chiếu đã nuôi sống người ở đất này và người làng rất tự hào về một làng nghề được truyền nối qua bao thế hệ. Làng chiếu Cẩm Nê cứ thế nổi tiếng gần xa. Nhà nào cũng có ít nhất một khung dệt, nhà nhiều thì có ba, bốn khung và thuê nhân công dệt ngày dệt đêm. Làng quê luôn rộn ràng tiếng dập khung, tiếng xe cộ chuyển hàng. Từ đầu làng đến cuối làng rực rỡ những gam màu vàng, xanh, đỏ, tím... nhuộm trên những sợi cói được hong phơi.

Khoảng những năm 1980-1990, chiếu Cẩm Nê ở vào giai đoạn cực thịnh khi sản phẩm của làng bán khắp miền Trung. Nhà nhà dệt chiếu. Khung lớn, khung bé rải đều từ nhà dưới lên nhà trên. Trong nhà khi nào cũng có cả chục người làm, xe cộ nườm nượp vào ra chở chiếu đem bán. Mỗi dịp Tết, đơn hàng tới tấp. Ngày thường, khung dệt 2-3 đôi thì phải tăng ca thành 4 đôi chiếu thế mà vẫn không đủ bán. Nhưng, một thời hưng thịnh và suy vong, làng chiếu bây giờ dường như chỉ còn cái tên, bởi chẳng còn những lách cách thoi đưa, những sợi cói rực rỡ trong nắng, những bãi đay bãi lác rì rào trong gió, tất cả chỉ là một thời quá vãng. Những cơn lốc của thị trường đã cuốn làng chiếu lao đao. Nào là những sản phẩm đệm, rồi chiếu nhựa, chiếu công nghiệp, thảm các loại với giá rẻ đã đánh sập cái nghề truyền thống mấy trăm năm của làng.

Bà Thông vẫn dệt chiếu, nhưng họa hoằn, khi có khách du lịch đến làng tham quan, khi có đặt hàng hoặc vào độ tết.

Bà Thông vẫn dệt chiếu, nhưng họa hoằn, khi có khách du lịch đến làng tham quan, khi có đặt hàng hoặc vào độ tết.

Quá trưa, bà Dương Thị Thông (65 tuổi) mới tất tả đạp xe về. Bà là con gái cụ Ngô Thị Thân - một nghệ nhân dệt chiếu hơn 70 năm làm nghề của làng. Bà Thông, con gái cụ, cũng là một nghệ nhân, nhưng lại là người cuối cùng còn dệt chiếu ở làng. Trước cửa, tấm biển giới thiệu sản phẩm làng nghề chiếu Cẩm Nê của bà đã bạc như cái nghề của cha ông đang lay lắt ở chính nơi này. Giờ bà Thông chỉ thi thoảng mới dệt chiếu, khi có khách đặt hàng, hay khi có đoàn du lịch tới thăm và chỉ những dịp cuối năm, khi việc nông đã vãn, việc làm thuê cũng vơi, còn lại ngày ngày bà đi phụ hồ, đi nấu đám tiệc, hay làm các công việc lặt vặt khác. Bởi, nghề gia truyền giờ không còn nuôi sống nổi thân mình, bỏ thì cũng tiếc lắm chứ! Cái nghề dệt chiếu như máu như thịt, là nghề gia truyền khi ông bà nội và cha mẹ bà cũng là những nghệ nhân dệt chiếu trong làng. Tuy trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, gia đình bà vẫn cố gắng giữ cho được nghề. Ngay từ năm 10 tuổi, bà Thông đã được cha mẹ truyền lại và cho đến nay, bà đã gắn bó với nghề hơn 55 năm.

Trong mạch ngầm trí nhớ, bà Thông vẫn mường tượng ra cảnh người làng từ già đến trẻ, người trồng lác, người chăm đay, người xe sợi, người nhuộm cói... tiếng gọi tiếng cười, tiếng thoi tiếng cửu rộn ràng với cả tiếng mua bán giăng kín cả làng chiếu này. Chỉ chừng đó thôi, đủ thấy thời đỉnh cao của làng nghề dệt này đã huy hoàng đến mức nào. Kí ức ấy, bà Thông chưa bao giờ một lần dám quên. Nhưng rồi thời cuộc, rồi kinh tế thị trường... tất cả vùi những kỷ niệm hoàng kim ấy xuống dưới cơm áo gạo tiền.

Công làm một chiếc chiếu không hề nhỏ, từ việc gặt lác, chặt đay về đêm phơi, rồi phẩm nấu lên và nhúng sợi lác vào, nhúng từng nắm một và mang phơi nắng. Một nắm lác có thể nhuộm một hoặc hai - ba lần. Mỗi khung dệt có hai người tham gia. Trong đó, một người luồn cói và người kia dùng go dệt cói vào đay cho chắc chắn. Chiếu dệt xong mang phơi khắp sân, rồi cuối cùng ghim các đầu dây đay để cho hai đầu chiếu khỏi bung ra. Để chiếu không lệch thì làm công đoạn này phải khéo tay và có cặp mắt tinh tế. Viền chiếu luôn được gấp rất kỹ, độ dày cũng lớn hơn, độ bền chắc chắn và nằm êm lưng hơn so với chiếu địa phương khác. Mỗi đôi chiếu đặt làm đặc biệt thì giá 700.000-800.000 đồng, tương đương với chiếu trúc làm máy. Sau khi trừ tiền thuê nhân công và nguyên vật liệu thì gần như không còn một đồng lời. Do không có nguồn nguyên liệu tại chỗ, người làng chiếu phải đặt mua sợi cói từ địa phương khác, lấy công phơi, nhuộm cói, dệt chiếu làm lời. Mỗi chiếc chiếu thủ công thông thường được bán với giá khoảng 250.000-300.000 đồng. Sau khi trừ các khoản chi phí, số tiền bán được có khi cũng không đủ trang trải cuộc sống. Bởi vậy, cái nghề cứ dần lụi đi trông thấy.

Bà Thông cùng người bạn dệt chiếu.

Bà Thông cùng người bạn dệt chiếu.

Người còn nhớ tiếng thoi đưa

Tôi đi khắp làng, ngang qua những xóm Đùng, xóm Đồng Khánh, xóm Bến Đò, xóm Bến Bắc, xóm Dinh, xóm Làng... chẳng còn vang tiếng loạch xoạch của người làm chiếu nữa. Nhiều người già trong làng cũng đau đáu với cái nghề của cha ông. Nhưng, đành chịu. Cuộc sống của những người làm chiếu rơi vào khó khăn, người làng lần lượt bỏ nghề, những khung dệt dần đóng bụi. “Cách đây 5-7 năm, sau nhiều năm cất giữ với ước mong hồi sinh làng nghề, nhiều nhà đành phá khung dệt vì chật nhà. Người làng cái tay không còn quen đưa thoi, bàn chân không còn quen dập, con mắt không còn quen nhìn màu nhuộm nữa. Đau lòng lắm!”, bà Ngô Thị Mua (66 tuổi, trú thôn Cẩm Nê), người phụ làm chiếu với bà Thông bộc bạch.

Còn bà Thông gắn bó với nghề hơn 50 năm, trải qua biết bao những thăng trầm cùng khung dệt, bà Thông vẫn không nỡ rời xa. Ngày trước cả làng có khoảng 200 hộ nhưng hộ nào cũng dệt chiếu mưu sinh. Khung cảnh làng quê nhộn nhịp lắm. Còn bây giờ, gần 700 hộ dân mà chỉ còn mình bà Thông bám trụ. Nguyện vọng duy nhất của bà là giữ nghề cho đến khi nằm xuống. Không làm thường xuyên nữa nhưng cần thì vẫn dệt chiếu để giữ lấy thương hiệu làng nghề. Dù vậy, tuổi đã cao, thỉnh thoảng bà Thông mới ngồi vào khung dệt. Chiếc khung dệt hầu hết nằm lặng lẽ ở góc sân, mà nhớ bàn tay đưa thoi.

Một dạo cách đây chừng 7 năm, chính quyền huyện, xã từng triển khai nhiều chương trình hỗ trợ để khôi phục làng nghề nhưng gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên liệu thiếu hụt, người dệt chiếu chẳng còn mặn mà khi thu nhập quá thấp, sức cạnh tranh của các loại chiếu công nghiệp khác là những nguyên nhân cốt lõi. Chính quyền các cấp cũng định hướng việc làng chiếu Cẩm Nê được khai thác và phát triển theo hướng du lịch làng nghề, điều này sẽ mang đến hiệu quả kép như vừa bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của làng nghề, vừa tạo thêm công ăn việc làm cho người dân qua dịch vụ phục vụ du lịch, góp phần tăng nguồn thu, cải thiện đời sống kinh tế.

Năm 2017, cán bộ Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Hòa Vang cũng về Cẩm Nê tìm người có tâm huyết để khôi phục nghề dệt chiếu. Nhưng không còn nhiều người. Những người dệt chiếu và bán chiếu nơi này đã qua tuổi “xưa nay hiếm”, muốn dựng lại làng nghề phải đào tạo lớp thợ trẻ mới. Huyện cũng đã lập phương án khôi phục làng nghề truyền thống để tạo sản phẩm phục vụ du lịch. Huyện hỗ trợ 100 triệu đồng cho các khoản: làm lại mái che nhà xưởng, khung cửi; hỗ trợ tiền nhân công, tiền dạy nghề cho các người còn yếu nghề... Trong đó, trực tiếp hỗ trợ 45 triệu cho bà Thông để mua nguyên vật liệu, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm. Dưới sự “đỡ đầu” của chính quyền.

Những chiếc khung dệt nằm phủ bụi, đợi người đưa thoi.

Những chiếc khung dệt nằm phủ bụi, đợi người đưa thoi.

Có vốn, bà Thông mua lác từ miền Tây Nam Bộ, từ Quảng Nam về làm. Bà cũng vận động hai người nữa dệt chiếu. Nhưng rồi, họ cũng buông tay. Làm chiếu cần phải có 2 người, còng lưng cả ngày có khi không có lãi, may chăng có những đoàn du lịch đến tham quan, hay dịp Tết đến rỗi việc thì bà Thông mới làm và chỉ lãi 100.000 đồng/đôi chiếu. Cực nhọc là vậy nhưng cứ buông khung dệt là lòng bà bồn chồn. Gần một đời theo nghề dệt chiếu, bà Thông hiểu rằng, để có được thương hiệu trên thị trường và được người tiêu dùng ưa chuộng, chiếu Cẩm Nê phải được làm hoàn toàn thủ công và phải giữ đúng kỹ thuật của làng. Nhưng rồi, tất cả cũng rơi rụng dần, giờ chỉ còn một mình bà Thông dệt chiếu, khó có thể tạo thành một làng nghề. Những thanh âm trỗi lên từ khung cửi dệt chiếu không còn thường xuyên vang lên rộn rã ở các căn nhà ở làng Cẩm Nê nữa.

Bây giờ, bà Thông vẫn dệt chiếu, nhưng họa hoằn, khi có khách du lịch đến làng tham quan, khi có đặt hàng hoặc vào độ Tết. Bà vẫn thương vô cùng cái nghề của cha ông, nhưng bất lực bởi sự hiu hắt của làng nghề bây giờ. Bóng chiều hắt vào hiên nhà cũ. Bà Thông ngồi bên khung dệt cùng người bạn già dệt chiếu. Đôi tay thoăn thoắt bện những sợi cói đủ màu sắc, tiếng thoi đưa chậm rãi như nhịp thở của người già. Những sợi cói sợi lác nằm len lén bên hiên nhà đong đưa theo gió, hình như cũng chùng chình mất được gia truyền của người thợ dệt chiếu cuối cùng xứ Cẩm Nê.

Có thể bạn quan tâm

Sắc màu huyền bí

Sắc màu huyền bí

Văn hóa dân tộc M’nông luôn tạo cảm giác tò mò bởi sự huyền bí. Ở bất cứ lễ hội nào, đồng bào dân tộc M’nông cũng thể hiện những nét đặc trưng độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc họ. Bản sắc văn hóa đó cứ mãi lan tỏa, rất riêng, không nơi nào có được.

Bánh cuốn của người Tày trên vùng đất lúa

Bánh cuốn của người Tày trên vùng đất lúa

(GLO)- Từ hàng chục năm trước, nhiều gia đình người Tày từ các tỉnh miền núi phía Bắc di cư vào vùng đất Phú Thiện (tỉnh Gia Lai) với khát khao xây dựng cuộc sống mới. Cũng từ đó, món bánh cuốn hay còn được gọi là bánh cuốn canh được họ mang theo đã trở thành đặc sản của vùng đất này.

Dưới bóng nêu làng

Dưới bóng nêu làng

Nghệ nhân nhân dân Hồ Ngọc An (70 tuổi, ở làng Trà Dòn, thôn 2, xã Trà Thủy, H.Trà Bồng, Quảng Ngãi) ngày đêm "truyền lửa", đào tạo lớp trẻ thực hành nghệ thuật trang trí cây nêu làng để gìn giữ tinh túy văn hóa dân tộc Kor.

Nghề lái tàu metro: 'Trái tim' của đoàn tàu

Nghề lái tàu metro: 'Trái tim' của đoàn tàu

Không trực tiếp lái tàu hay đón khách, đội ngũ nhân viên tại Phòng điều độ ở depot Long Bình (TP.Thủ Đức, TP.HCM) là những người làm việc thầm lặng, nhưng quyết định sự vận hành trơn tru của toàn hệ thống metro số 1 (Bến Thành - Suối Tiên).

Bài cuối: Lối mở 'hút' các nhà khoa học, nguồn nhân lực chất lượng cao

Bài cuối: Lối mở 'hút' các nhà khoa học, nguồn nhân lực chất lượng cao

Sau khi Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Nghị quyết 193/2025/QH15 thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia ra đời.

Nữ anh hùng ở ngôi làng anh hùng

Nữ anh hùng ở ngôi làng anh hùng

Ngôi làng ấy trải qua những năm tháng đau thương và hào hùng của chiến tranh, ngôi làng ấy cũng sinh ra người nữ anh hùng đặc biệt. Mấy mươi năm ngày đất nước thống nhất, làng anh hùng đã thay da đổi thịt, và người nữ anh hùng cũng đã bạc trắng mái đầu.

Đổi thay trên quê hương Anh hùng A Sanh

Đổi thay trên quê hương Anh hùng A Sanh

(GLO)- Phát huy truyền thống quê hương Anh hùng A Sanh, những năm qua, người dân làng Nú (xã Ia Khai, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai) luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, tích cực, chủ động trong lao động sản xuất, trở thành điểm sáng trong xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.

Ký ức tháng ba

Ký ức tháng ba

(GLO)- Một ngày mùa khô cuối tháng 3-1975, ông Ksor Doen lần đầu tiên trở về làng Tung (xã Ia Nan, huyện Đức Cơ) sau hơn 2 năm xa nhà. Quê nhà hiện ra sau cây hoa pơ lang còn sót lại vài bông cuối mùa khiến người lính đang ngây ngất trong niềm vui chiến thắng càng bồn chồn bước chân.