Những chiếc ché Tây Nguyên nói gì?

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Hãy lắng nghe xem những chiếc ché (ghè) kể câu chuyện gì thuở văn hóa rừng độc trị. Thực hay hư ảo? Huyền thoại hay tâm linh? Không lý giải được. Nhưng yêu biết mấy không gian của miền quê hương cao nguyên đất đỏ tràn nắng, ngập gió; những ngày lễ hội chung chiêng vòng xoang trong nhịp chiêng ngân, ngất ngư say bên những ghè rượu cần men lá đắng dành cho đàn ông và ngòn ngọt dành cho phụ nữ.
Tây Nguyên hiện có khoảng 47 dân tộc anh em đang cùng cộng cư, gồm cả người tại chỗ và người các vùng miền trong cả nước chuyển đến, tất cả cùng tạo nên một vùng văn hóa độc đáo và nhiều khác biệt. Trong quá trình thực hành các lễ thức, ngoài nghệ thuật diễn xướng, văn học truyền miệng, có một hiện vật không thể thiếu trong nghệ thuật ẩm thực Tây Nguyên, đó là những chiếc vò làm bằng các loại gốm, được gọi là eh-ché, dành để ủ rượu từ men lá, củ, quả của rừng, uống bằng cần, gọi là “rượu cần”. Ché là một trong những hiện vật-sản vật-lễ vật không thể thiếu để dâng lên các vị Yàng linh thiêng trong tôn giáo thực hành tâm thức đa thần, không chỉ nhằm giao tiếp với anh em bạn bè, mà còn bày tỏ sự cầu xin, một mong ước, tạ ơn một công việc tốt đẹp, tạ lỗi một sự vi phạm…
 Ché là hiện vật không thể thiếu trong ẩm thực Tây Nguyên. Ảnh: Hồng Thi
Ché là hiện vật không thể thiếu trong ẩm thực Tây Nguyên. Ảnh: Hồng Thi
Trong một năm, người Tây Nguyên có nhiều lễ, hội, nên cứ sau khi thu hoạch xong mùa màng, cũng là lúc năm cũ đã qua, năm mới đến, rượu cần thường được ủ sẵn hàng chục ché, cất kỹ, thậm chí là chôn xuống đất, khi có lễ, có việc hay có khách sẽ mang ra dùng. Theo quan niệm vạn vật hữu linh của người Tây Nguyên, bên cạnh các vị Yàng trú ngụ ở khắp mọi nơi, trong mỗi chiếc ché đều có một linh hồn. Do đó, ché không đơn thuần chỉ là hiện vật, mà còn mang tính thiêng khi gắn với các lễ nghi.
Người Việt có câu “miếng trầu là đầu câu chuyện”, thì rượu ủ trong ghè, uống bằng cần của người Tây Nguyên cũng có chức năng giao tiếp với con người tương tự thế. Khách đến nhà, dù là khách gần hay xa, thân cận hay xa lạ, chủ nhà cũng phải cột một ghè rượu để giao lưu trước khi câu chuyện được bắt đầu. Tùy theo vai vế hay số lượng khách mà ghè rượu to hay nhỏ và đổ nước từ nồi đồng vào. Rượu nếu muốn uống ngay có thể làm bằng củ mì. Lâu hơn một chút thì bằng bắp hay kê. Lâu nữa (vài ba tháng) thì làm bằng gạo. Người Jrai còn rang gạo lên rồi mới ủ, khiến rượu có màu nâu sậm và thơm đặc biệt… Tất cả được ủ bằng men lá, củ rừng. Muốn để lâu và ngon, rượu gạo phải đem chôn xuống đất (hạ thổ), thậm chí có khi hàng năm trời.
Có những câu chuyện hay, những quy tắc bất di bất dịch đằng sau những chiếc ché, hiện diện ở dưới những nóc nhà sàn, nhà dài khắp Tây Nguyên. Này là ché có hình con rùa chìm, rùa nổi; này là ché tang điêt có hình 2 con rồng quấn quanh; kia là ché có 2-3 hàng hột nổi với 8 chiếc “tai” và hoa văn hình tròn niên đại từ thế kỷ XIX… Kia nữa là ché Tuk lớn, phải đổi bằng mấy chục con bò mới có nổi; hay loại ché Tang mới có từ cuối thế kỷ XX… Số “tai” trên một chiếc ché cũng rất quan trọng, tai càng nhiều, giá trị của ché càng cao, vì đây là chỗ móc những chiếc vòng đồng để trao cho ai đó sau lễ cúng sức khỏe, chào đón hay lễ thành niên… Bởi chiếc vòng đó đã được các Yàng linh thiêng ban phúc, nên nếu muốn, sau một tuần trăng mới được tháo ra. Ai lỡ làm gãy “tai” ché sẽ bị phạt vạ rất nặng.
Ché Tây Nguyên có nhiều nguồn gốc, xuất xứ. Ché từ Đồng Nai sang, ché đến từ gốm Cây Gòn, Cây Mai Sài Gòn mang phong cách Trung Hoa, ché Nam Ổ từ Quảng Nam lên, ché Chăm từ Ninh Thuận… được bước chân những bầy voi dập dình xuyên rừng, lội suối chuyên chở, hay đoàn nô lệ của các thương nhân còng lưng trên những lối mòn để gùi, cõng đến với các buôn, bon, kon, plei Tây Nguyên. Mỗi lần như thế chỉ vận chuyển được vài chiếc, muốn ché cỡ lớn phải đặt hàng tháng, có khi hàng năm mới có được. Nên không lạ nếu bạn nghe nói chiếc ché nào đó từng phải đổi bằng cả 10-15 con trâu, bò.
Ché có đủ loại to-nhỏ, bầu-dài, đáy lõm-đáy bằng… với nhiều kiểu dáng, màu sắc khác nhau. Ché thì gốm thô, ché men vàng da lươn, ché nâu màu đất, ché biếc màu lá rừng, ché xanh muôn muốt như mắt mèo… Ché nào thì cũng dùng để ủ và uống rượu. Nhưng có những chiếc ché chỉ được mang ra sử dụng trong các lễ thức có ăn trâu, cúng gà. Có ché được cột bất cứ thời gian nào khách đặt chân lên nhà sàn. Có ché chỉ dùng đối ẩm với một vị khách đặc biệt.
Mùa gió lại về nghĩa là mùa xuân tới. Một mùa no đủ đã đến. Còn bao nhiêu người phụ nữ trong những căn nhà sàn đâu đó trong các buôn, bon, kon, plei tất bật xoay quanh những chiếc ché đang hớn hở mở miệng tươi cười đón những hạt cơm thơm mùi gạo mới, đậm mùi men lá, ủ cho hương lên ngạt ngào, rồi múc nước từ những chiếc nồi đồng, đổ cho đầy mặt ché, sóng sánh, long lanh như ánh mắt cô gái Tây Nguyên lúng liếng chào mời về đón năm mới cùng với buôn em. Rằng “Lên cao nguyên đi anh, chiều như mơ như thực, nối vòng xoang xoay mãi, hương rượu cần ngất ngây…” (thơ Yên Ninh).
Linh Nga Niê KDam

Có thể bạn quan tâm

Cứu lấy di sản nhà dài Ê Đê

Cứu lấy di sản nhà dài Ê Đê

Trong nhịp đô thị hóa, nhà dài dần vắng bóng tại các buôn làng Ê Đê. Có ngôi nhà dài gần như nguyên bản, nhưng ông Y Jui Êban ở buôn Kmrơng Prông B (xã Ea Tu, TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) đang lo có thể đổ sập bất kỳ lúc nào.

Tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc

Tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc

Việc Việt Nam tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc - Vesak 2025 một lần nữa khẳng định vai trò ngày càng lớn của Phật giáo Việt Nam trong đời sống tôn giáo quốc tế.

Ksor Mang nặng lòng với văn hóa Jrai

Ksor Mang nặng lòng với văn hóa Jrai

(GLO)- Nhiều năm qua, anh Ksor Mang (SN 1986, buôn Phu Ma Nher, xã Ia Rtô, thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai) có nhiều đóng góp trong việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Jrai, nhất là việc truyền dạy cồng chiêng cho thế hệ trẻ.

Xác lập 5 kỷ lục Phật giáo Việt Nam

Xác lập 5 kỷ lục Phật giáo Việt Nam

Trong khuôn khổ lễ bế mạc Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc - Vesak 2025 diễn ra ngày 8/5, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam ghi nhận cùng lúc 5 kỷ lục về Phật giáo. Các kỷ lục được trao tặng cho Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Xa dần tiếng trống hơ gơr

Xa dần tiếng trống hơ gơr

(GLO)- Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, trống là vật thiêng, có Yàng trống bảo hộ, có giá trị cao nên cất giữ nơi trang trọng và được đem ra dùng trong những dịp lễ hội lớn của buôn làng hoặc gia đình. Ngày nay, các buôn làng ở Tây Nguyên dường như xa dần tiếng trống hơ gơr.

Nhà giáo Tạ Chí Tào tặng hiện vật quý cho Bảo tàng tỉnh

Nhà giáo Tạ Chí Tào tặng hiện vật quý cho Bảo tàng tỉnh Gia Lai

(GLO)- Nhiều lần đến tham quan Bảo tàng Hồ Chí Minh (thuộc Bảo tàng tỉnh Gia Lai), nhà giáo Tạ Chí Tào rất tâm đắc với những hiện vật thể hiện tấm lòng của người dân Tây Nguyên đối với Bác. Vì vậy, ông đã quyết định trao tặng một số hiện vật liên quan đến Bác Hồ mà mình đã sưu tầm cho Bảo tàng tỉnh.

Tương lai viết nên từ bản lĩnh văn hóa

Tương lai viết nên từ bản lĩnh văn hóa

Di sản nếu không được số hóa, không được kể lại theo cách của thời đại sẽ dần bị đứt gãy trong trí nhớ cộng đồng. Một thế hệ lớn lên không thấy được những giá trị đã tạo nên cội nguồn sẽ khó tìm thấy niềm tự hào, khó kiến tạo tương lai có chiều sâu văn hóa.

Di sản người Anh hùng trên đất Tây Nguyên

Di sản người Anh hùng trên đất Tây Nguyên

(GLO)- Giữa cái nắng oi ả của tháng 4, chúng tôi từ TP. Pleiku vượt hơn 70 km về thăm làng Stơr (xã Tơ Tung, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai), quê hương của Anh hùng Núp. Nơi đây có nhà lưu niệm mang dấu ấn lịch sử-văn hóa độc đáo, thu hút đông đảo du khách đến tham quan, tìm hiểu.

Di sản Hán Nôm: Khai mở lịch sử văn hóa Gia Lai

Di sản Hán Nôm khai mở lịch sử văn hóa Gia Lai

(GLO)- Có những trầm tích văn hóa nằm im lìm trong những đạo sắc phong cũ kỹ, tờ khế ước ruộng đất phủ bụi thời gian hay văn tế cổ xưa xướng lên nơi đình làng. Tại Gia Lai, kho báu di sản Hán Nôm ấy đang dần được đánh thức, góp phần khai mở lịch sử văn hóa của vùng đất cao nguyên.

Làng Mông trên cao nguyên

Làng người Mông trên cao nguyên

(GLO)- Tính đến thời điểm này, những hộ gia đình người Mông đã sinh sống được 42 năm trên cao nguyên Gia Lai. Vùng đất mà họ chọn là xã Ya Hội, huyện Đak Pơ. Theo thời gian, dấu ấn người Mông ngày càng in đậm trên mảnh đất này.

Phụ nữ làng Groi phát huy nghề dệt thổ cẩm

Phụ nữ làng Groi phát huy nghề dệt thổ cẩm

(GLO)- Gần 2 năm đi vào hoạt động, Câu lạc bộ (CLB) Dệt thổ cẩm làng Groi (xã Ya Hội, huyện Đak Pơ) đã trở thành mái nhà chung cho những phụ nữ yêu thích nghề dệt. Thông qua các buổi sinh hoạt, chị em có cơ hội giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm và chung tay gìn giữ, phát huy nghề dệt truyền thống.

Lễ cúng bến nước. Ảnh: M.H

Bến nước buôn Pông

(GLO)- Bến nước, dòng sông cũng như tập tục của bà con Jrai đã trở nên quen thuộc với tôi trong thời gian dài công tác tại ngôi trường bên bờ sông Ba.