Người phiên dịch tiếng Trung bên Bác Hồ

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Với 60 năm cuộc đời (1907-1967), cha tôi - Thiếu tướng Trần Tử Bình, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Trung Quốc (từ 1959-1967), có 40 năm hiến dâng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong đó 17 năm sống, làm việc trên đất bạn Trung Hoa. Vì thế, chúng tôi được nghe từ cha và bạn bè Trung Quốc của cha kể nhiều kỷ niệm về tình cảm sâu nặng của các nhà lãnh đạo Trung Quốc dành cho Bác Hồ, nhất là Thủ tướng Chu Ân Lai…

Ông Lương Phong quê ở Quảng Đông nhưng cha mẹ sang Việt Nam sinh sống từ lâu. Sinh năm 1932 tại Hà Nội, lớn lên, Lương Phong vào học Trường Trung học Trung Hoa (dành cho con em người Hoa) và bắt đầu tham gia phong trào học sinh ủng hộ Việt Minh.

Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta bùng nổ, Lương Phong tham gia phong trào thanh niên người Hoa ủng hộ kháng chiến, sau đó được tổ chức Đảng trong Ban Hoa vận giới thiệu lên chiến khu Việt Bắc. Tại đây, ông làm cơ yếu trong tổ điện đài của Trung ương do đồng chí Lý Ban phụ trách, đảm bảo liên lạc giữa Trung ương Đảng ta với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Chủ tịch Mao Trạch Đông đón tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Trung Quốc.

Chủ tịch Mao Trạch Đông đón tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Trung Quốc.

Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai ra sân bay Bắc Kinh đón Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Trung Quốc năm 1957. Ảnh tư liệu

Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai ra sân bay Bắc Kinh đón Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Trung Quốc năm 1957. Ảnh tư liệu

Năm 1949, khi vừa tròn 17 tuổi, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Khi thành lập Đoàn cố vấn Trung Quốc bên cạnh Trung ương Đảng và Chính phủ ta, ông được điều động về Đoàn cố vấn, làm công tác phiên dịch cùng các ông Văn Trang, Hoàng Quần, Trương Đức Duy...

Trong chiến dịch Biên giới Thu đông 1950, ông được giao nhiệm vụ phiên dịch cho Bác làm việc với tướng Trần Canh, người được Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cử sang Việt Nam giúp tư vấn về chiến dịch. Mặc dù nghe, nói tiếng Hoa khá tốt nhưng Bác vẫn chỉ đạo cần có phiên dịch và khẳng định: “Làm thế cho đúng nguyên tắc và để dành thời gian mà suy nghĩ và chuẩn bị công việc tiếp theo”.

Khi thấy Lương Phong dịch còn lỗi, Bác ân cần hỏi thăm đã học tiếng Việt ở đâu, bao lâu. Biết Lương Phong sống ngay ở phố Hàng Buồm, Hà Nội, biết chút tiếng Việt, nay tiếp tục được con gái cụ Tôn Đức Thắng dạy tiếng Việt thì Bác rất vui. Lương Phong nhớ mãi lời Bác dặn: "Muốn làm việc tốt thì chú cần phải học nhiều hơn nữa!".

Trong những năm 1950-1955, Lương Phong nhiều lần được phiên dịch cho Bác khi Người làm việc với Tổng cố vấn La Quý Ba và Đoàn cố vấn Trung Quốc. Tháng 9/1954, Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam được thành lập, cả hai ông Văn Trang, Lương Phong trở thành cán bộ sứ quán.

Năm 1959, khi cha tôi nhận nhiệm vụ sang Trung Quốc làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Bắc Kinh thì ông Lương Phong là Bí thư thứ 3, thư ký kiêm phiên dịch cho Đại sứ Hà Vỹ. Sau mấy năm làm việc ở sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, ông Lương Phong trở về cố hương.

Ông nhớ lại: “Trong mỗi chuyến công du của Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Trung Quốc, tôi đều được giao nhiệm vụ phiên dịch. Tới năm 1969, có đến 20 lần tôi được đi với Bác. Năm 1966, khi Bác Hồ tới Hàng Châu gặp Chủ tịch Mao Trạch Đông bàn về “tiến hành chiến tranh với Mỹ ở Việt Nam” thì tôi phiên dịch, còn ông Văn Trang làm nhiệm vụ thư ký".

Chủ tịch Mao Trạch Đông và một số nhà lãnh đạo Trung Quốc đón tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Mao Trạch Đông và một số nhà lãnh đạo Trung Quốc đón tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bút tích Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi ông Lương Phong, người phiên dịch của Bác trong nhiều năm.

Bút tích Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi ông Lương Phong, người phiên dịch của Bác trong nhiều năm.

Các vị lãnh đạo Đảng và Chính phủ Trung Quốc rất thân tình với Bác, đặc biệt là vợ chồng Thủ tướng Chu Ân Lai vì đã quen biết nhau từ đầu thế kỷ XX khi cùng hoạt động ở Pháp. Thủ tướng Chu Ân Lai rất quan tâm đến sức khỏe của Bác. Một lần vừa nghe Bác nói bị mất ngủ, Thủ tướng Chu Ân Lai liền cử võ sư giỏi về Thái cực quyền sang Hà Nội giúp Bác luyện võ rèn luyện sức khỏe và phục hồi giấc ngủ.

Tháng 8/1969, thấy Bác yếu nhiều, Thủ tướng Chu Ân Lai cử tập thể bác sĩ giỏi sang Việt Nam chữa trị cho Người. Ngày 2/9/1969, ông Lương Phong nhận nhiệm vụ mang thuốc quý, bay gấp sang Hà Nội. Khi máy bay đang trên vùng trời Nam Ninh thì được tin Bác mất, ông phải quay về ngay Bắc Kinh để hôm sau cùng Thủ tướng Chu Ân Lai bay sang Hà Nội. Thủ tướng Chu Ân Lai là nguyên thủ quốc gia đầu tiên có mặt viếng Bác.

Vì quan hệ thân thiết trong công việc của cha mẹ mà anh em chúng tôi quý trọng bạn bè, đồng chí của ông bà. Dù cha mẹ đã mất nhưng chúng tôi vẫn cố gắng giữ liên lạc và hàng chục năm sau, dẫu xa xôi cách trở nhưng khi có điều kiện thì cố gắng tới thăm hỏi các cô chú.

Tháng 12/2007, bốn anh em tôi sang Bắc Kinh du lịch và được vợ chồng chú Lương Phong mời cơm. Bữa cơm có chú Văn Trang và vợ chồng chị Cao Đức Khả, nguyên Tổng lãnh sự Trung Quốc ở TP Hồ Chí Minh. Giữa cái lạnh giá băng tuyết của ngày cuối năm, chúng tôi cùng nhau ôn lại những năm tháng đã qua, về số phận mỗi con người gắn liền với vận mệnh dân tộc, về những người đã dày công xây dựng tình hữu nghị Việt - Trung...

Hè năm 2016, gia đình tôi bay sang Bắc Kinh, hẹn đến thăm tư gia nhưng được chú trả lời: “Thôi, ta gặp nhau ở Di Hòa Viên (một công viên nổi tiếng ở Bắc Kinh, được Từ Hy Thái hậu đích thân quy hoạch xây dựng), chú sẽ dẫn đến một địa chỉ quý”. Đúng hẹn, chú cháu gặp nhau ở cửa Tây. Chú kể, vì nhà gần, đi metro chỉ vài ga nên thường đến đây tập thể dục mỗi sáng. Dọc theo trường lang dài 738 m có mái che với 273 gian, được trang trí những bức tranh cổ, nối dài suốt từ cửa Tây đến tận con thuyền bằng đá làm từ đời vua Càn Long (1755) mà Từ Hy Thái hậu thường ngự mỗi lần duyệt hải binh. Dừng chân trước Lạc Thọ Đường, chú kể tại đây Thủ tướng Chu Ân Lai đã mở đại yến tiệc chiêu đãi cha tôi, Đại sứ Trần Tử Bình, người mà chú có vinh dự phiên dịch.

Vợ chồng ông Lương Phong (hàng đầu, bên trái) tiếp các con trai của Thiếu tướng Trần Tử Bình (tháng 12/2007).

Vợ chồng ông Lương Phong (hàng đầu, bên trái) tiếp các con trai của Thiếu tướng Trần Tử Bình (tháng 12/2007).

Vỹ thanh

Nhân dịp kỷ niệm 40 năm Ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam (27/1/1973 - 27/1/2013), vợ chồng chú Lương Phong (vợ chú là phiên dịch tiếng Pháp của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, cũng từng phiên dịch cho Bác Hồ) cùng nhiều người bạn Trung Quốc là khách quý của Hội hữu nghị Việt - Trung TP Hồ Chí Minh. Anh em tôi vinh dự được cùng Đại tá Hoàng Minh Phương và Thiếu tướng Nguyễn Minh Long (cả hai là học trò tiếng Hoa của thầy Văn Trang năm 1950, giờ cũng đã là người thiên cổ) có mặt tiếp vợ chồng chú. Tại đây, chú Lương Phong đã trân trọng tặng Hội những kỷ vật vô giá. Đó là bức ảnh “Bác Hồ quàng chiếc khăn len do bà Tống Khánh Linh, phu nhân cụ Tôn Trung Sơn tặng, khi đi nghỉ ở biển Bắc” cùng những bức thư tay trao đổi về chữ nghĩa, nói rộng hơn là tri thức, của Bác với ông Lương Phong.

Ông Lương Phong sinh năm 1932, năm nay đã 91 tuổi. Vậy mà ông vẫn dùng WeChat (mạng xã hội phổ biến ở Trung Quốc) giữ liên hệ với đồng chí, bạn bè trong và ngoài nước. Xin chân thành cảm ơn ông bà - những người đã góp công sức vun đắp tình hữu nghị Việt - Trung. Kính chúc ông bà hạnh phúc, mạnh khỏe, cùng “bách niên giai lão”!

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Đề án 06: Động lực xây dựng tỉnh nhà hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

(GLO)- Triển khai Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030, các cơ quan, ban, ngành, đơn vị phối hợp chặt chẽ để tháo gỡ những điểm nghẽn, khó khăn, bất cập nhằm thực hiện đúng tiến độ.

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Cùng với mục tiêu đánh chiếm pháo đài Đồng Đăng, quân địch dồn lực lượng để bao vây, đánh chiếm cứ điểm hang Đền Mẫu án ngữ con đường dẫn đến thị trấn Đồng Đăng. Tại đây, quân và dân địa phương đã kiên cường bám trụ 3 ngày đêm chống lại quân xâm lược.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Ở góc Tây Nam

Ở góc Tây Nam

Bà chủ homestay đầu tiên trên đảo Hòn Đốc (Kiên Giang) - Phương Thảo - kể hồi mới theo chồng ra đảo, ở đây cái gì cũng thiếu. Nước ngọt mỗi ngày đều phải chờ xà-lan chở từ Hà Tiên ra, mỗi nhà xách theo một can 30l ra cầu cảng nhận phát nước.

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa nước bên bờ dòng Kinh Giang, xã Tịnh Khê (TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) gắn liền với lịch sử kháng chiến thống nhất đất nước. Hiện đây là nơi mưu sinh của người dân và là điểm du lịch hấp dẫn.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Làng Quy Hòa, ngôi làng nhỏ nằm nép mình bên bờ biển Quy Nhơn, là nơi trú ngụ cho những bệnh nhân phong trong nhiều thập kỷ. Trải qua nhiều biến động, cùng với tiến bộ của y học, căn bệnh nan y ngày nào đã không còn là nỗi ám ảnh.