Nét độc đáo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Qua cuộc hội thảo khoa học về Tây Sơn Thượng đạo mới đây tại thị xã An Khê, các nhà nghiên cứu lịch sử đã có những góc nhìn mới về cuộc khởi nghĩa nông dân của nghĩa quân Tây Sơn vào cuối thế kỷ XVIII, nhất là đánh giá vai trò của các dân tộc thiểu số ở vùng Trường Sơn-Tây Nguyên trong việc đóng góp công sức lớn lao cho đại nghiệp nhà Tây Sơn.

Rất tiếc, sau khi nhà Nguyễn giành lại giang sơn đã xóa sạch những di sản của Tây Sơn Tam kiệt, trong đó có nhiều tài liệu, sử sách trong giai đoạn lịch sử này. Do đó, ngày nay người hậu thế gặp rất nhiều khó khăn khi tìm hiểu, nghiên cứu về cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn, đa phần chỉ còn lại những câu chuyện dưới dạng truyền thuyết trong dân gian. Tuy nhiên, những di tích lịch sử còn lại ở Tây Sơn Thượng đạo đã minh chứng cho một thời kỳ nung nấu ý chí quật khởi của người anh hùng áo vải cờ đào.

 

Tượng vua Quang Trung tại Bảo tàng Quang Trung (huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Ảnh: Vĩnh Xuân
Tượng vua Quang Trung tại Bảo tàng Quang Trung (huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Ảnh: Vĩnh Xuân

Nét độc đáo đầu tiên của phong trào nông dân Tây Sơn khi khởi phát là khẩu hiệu “Lấy của nhà giàu chia cho người nghèo”. Điều này đã chiếm được cảm tình của dân chúng. Đại đa số nông dân nước ta thời bấy giờ đã bị bần cùng hóa do nhiều chính sách áp bức, bóc lột của các quan lại phong kiến, do chiến tranh kéo dài triền miên. Những bộ tộc miền núi thời ấy cũng bị chia cắt và phân tán bởi các thế lực cường quyền, nạn buôn bán nô lệ nên họ còn sống trong đói khổ, mông muội. Anh em Nhà Tây Sơn chọn vùng miền núi phía Tây phủ Quy Nhơn (tức là toàn bộ vùng Đông Trường Sơn ngày nay) làm căn cứ địa, lấy vùng An Sơn (An Khê ngày nay) làm trung tâm đầu não để tập hợp quần hùng.

An Sơn xưa kia chỉ có ấp Tây Sơn nhất, Tây Sơn nhì, chưa có nhiều người Kinh sinh sống, chủ yếu là các bộ tộc Bahnar, Xê Đăng, Jrai quần cư ở các miền núi hiểm trở trong dãy Trường Sơn, ước tính khoảng hơn vài vạn người. Các bộ tộc sống tách rời nhau theo đơn vị buôn, làng nhưng họ sở hữu một vùng tài nguyên tự nhiên vô giá có thể nuôi sống thiên binh vạn mã. Với con mắt thiên tài quân sự, Tây Sơn Tam kiệt ngay từ đầu đã nhìn thấy được thế mạnh vượt trội của địa thế và nguồn nhân lực, vật lực dồi dào từ phía Tây Duyên hải miền Trung ngày nay nên chọn làm đại bản doanh mưu nghiệp lớn. Việc quy tụ các bộ tộc ít người ủng hộ cho cuộc khởi nghĩa nông dân là ý tưởng rất sáng suốt, chứng tỏ năng lực vận động đoàn kết Kinh-Thượng tài tình của Tây Sơn Tam kiệt.

Lịch sử thời ấy còn nhắc đến một nữ kiệt tên Yă Đố, con một tù trưởng Bahnar đã được gả cho Nguyễn Nhạc làm vợ kế, sau này là thứ phi của vua Thái Đức. Đây là cuộc hôn nhân mang tính chiến lược; nhờ đó mà ngay từ đầu xây dựng lực lượng, nghĩa quân Tây Sơn đã có trong tay một đội quân người Thượng dũng mãnh cùng với 300 thớt voi, 400 con ngựa chiến và một hậu phương cung cấp quân lương vững chãi với đồng lúa (đồng Cô Hầu), vườn mít, vườn cam… Đây là cách xây dựng cơ sở vững mạnh từ trong lòng dân để góp phần làm cho “thực túc binh cường”. Đó là một bài học lịch sử mà sau này trong chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, chúng ta đã vận dụng một cách sáng tạo và thành công.

Một nét độc đáo thứ hai mà ít có lãnh tụ cuộc khởi nghĩa nào trước đó thành công, đó là sự vận dụng binh pháp một cách tài tình, nắm chắc phần thắng mới tiến công. Thời Tây Sơn Tam kiệt ở trong hoàn cảnh tứ bề thọ địch, bên cạnh chúa Nguyễn (Đàng Trong), chúa Trịnh  (Đàng Ngoài), còn có các đội quân người Hoa, người Chiêm Thành, Chân Lạp… thường xuyên quấy phá, chưa kể những bè đảng ngấm ngầm nổi lên ở các vùng từ Bắc vào Nam; đồng thời kẻ thù ngoại bang cận kề như nhà Thanh, quân Xiêm lăm le muốn xâm chiếm nước ta. Trong ba anh em Nhà Tây Sơn thì Nguyễn Huệ là người nổi trội về tài thao lược, có nghệ thuật dụng binh như thần, ý chí quyết chiến quyết thắng, mưu lược và sáng tạo trong từng trận đánh nên ông được mệnh danh là vị tướng “bách chiến bách thắng” mà sử sách nước Việt và trên thế giới xưa nay không được mấy người. Tướng sĩ quy tụ dưới trướng ông là những người tài ba xuất chúng, trí dũng song toàn, nhiều người trong đó xuất thân từ lớp bình dân.

Trong những lúc tình thế hết sức nguy nan và cấp bách, nhất là khi nội bộ anh em bất hòa, Bắc-Nam đều loạn lạc, kẻ thù manh tâm “rước voi về giày mả tổ”, chỉ cần người chủ tướng điều hành sai lệch một li thì thảm họa sẽ vô cùng lớn. Ở đây, chúng ta thấy sự khôn khéo và linh hoạt của Nguyễn Huệ trong tình thế chiến tranh phức tạp, biết chọn điểm nhấn quan trọng để giải quyết dứt điểm và tạo thanh thế mới, áp đảo được các thế lực khác. Trong trận Rạch Gầm-Xoài Mút, đội quân thiện chiến của Nguyễn Huệ đã bẻ gãy ý chí xâm lược của vương quốc Xiêm La, làm suy yếu thảm hại tập đoàn chúa Nguyễn khiến Nguyễn Ánh phải sống lưu vong ở nước ngoài nhiều năm; các đội quân của các vương quốc nhỏ bên cạnh phải thần phục. Khi cuộc chiến đấu với các thế lực Đàng Ngoài giằng co trong thời gian dài và vua quan nhà Hậu Lê rước quân Thanh vào giày xéo đất nước thì ông liền đưa ra quyết định dứt khoát, gác lại mối bất hòa với người anh cả (vua Thái Đức) mà tự lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu Quang Trung, thống lĩnh đại binh đánh tan 29 vạn quân Thanh, bẻ gãy ý chí xâm lược của tập đoàn nhà Thanh.

Các nhà nghiên cứu lịch sử cũng đã nói “lịch sử không cho ta chữ nếu”; tiếc thay người anh hùng-thiên tài quân sự Nguyễn Huệ đã mất một cách đột ngột khi còn đang trong thời kỳ sung mãn và uy tín sáng ngời kể cả trong và ngoài nước, nhất là với triều đình nhà Thanh. Bấy giờ, kế hoạch giải quyết Đàng Trong đã được bày sẵn và tập đoàn chúa Nguyễn như cá trên thớt, nếu ông động binh…

Như vậy, việc thống nhất đất nước của nhà Tây Sơn thời ấy dễ như trở bàn tay.

Bùi Quang Vinh

Có thể bạn quan tâm

Đại lễ Phật đản góp phần lan tỏa giá trị văn hóa Phật giáo

Đại lễ Phật đản góp phần lan tỏa giá trị văn hóa Phật giáo

(GLO)- Lời Tòa soạn: Nhân dịp Đại lễ Phật đản Phật lịch 2569, P.V Báo Gia Lai đã có cuộc phỏng vấn Hòa thượng Thích Từ Vân-Ủy viên Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh về ý nghĩa cũng như hoạt động của Giáo hội nhân sự kiện này.

Gia tài của cha

Gia tài của cha

(GLO)- Hoài niệm về ký ức quãng đời sống cùng cha mẹ, anh chị em chúng tôi thường nhắc đến gia tài của cha-di sản truyền thế hệ, chất keo kết dính tình thủ túc dường như chẳng có nỗi buồn.

Thơ Đào An Duyên: Mây biên giới

Thơ Đào An Duyên: Mây biên giới

(GLO)- “Mây biên giới” của tác giả Đào An Duyên là bài thơ giàu cảm xúc về vẻ đẹp thanh bình nơi biên cương Tổ quốc. Tác giả khắc họa hình ảnh cột mốc trong nắng dịu, mây trời không lằn ranh, rừng khộp lặng im... như một bản hòa ca của thiên nhiên và lịch sử...

Lan tỏa tình yêu thổ cẩm

Lan tỏa tình yêu thổ cẩm

(GLO)- Diễn ra trong gần 1 tháng, cuộc thi “Nét đẹp trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số qua ảnh” do Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Ia Pa (tỉnh Gia Lai) tổ chức đã nhận được 33 tác phẩm dự thi. Mỗi bức ảnh là một thông điệp ý nghĩa mà những người mẫu không chuyên muốn truyền tải đến mọi người.

Xây dựng hồ sơ nghệ nhân tạc tượng: Gìn giữ, trao truyền vốn quý

Xây dựng hồ sơ nghệ nhân tạc tượng: Gìn giữ, trao truyền vốn quý

(GLO)- Là đại diện của nền điêu khắc dân gian Tây Nguyên, tượng gỗ mang giá trị biểu đạt cao về đời sống và quan niệm thẩm mỹ của đồng bào dân tộc thiểu số. Tại TP. Pleiku (tỉnh Gia Lai), một hồ sơ nghệ nhân tạc tượng đã được xây dựng với mong muốn gìn giữ và trao truyền vốn quý di sản.

Nhà giáo Tạ Chí Tào tặng hiện vật quý cho Bảo tàng tỉnh

Nhà giáo Tạ Chí Tào tặng hiện vật quý cho Bảo tàng tỉnh Gia Lai

(GLO)- Nhiều lần đến tham quan Bảo tàng Hồ Chí Minh (thuộc Bảo tàng tỉnh Gia Lai), nhà giáo Tạ Chí Tào rất tâm đắc với những hiện vật thể hiện tấm lòng của người dân Tây Nguyên đối với Bác. Vì vậy, ông đã quyết định trao tặng một số hiện vật liên quan đến Bác Hồ mà mình đã sưu tầm cho Bảo tàng tỉnh.

Bên chiếc cầu thang nhà dài

Bên chiếc cầu thang nhà dài

(GLO)- Ngày trước, khi đến buôn Đôn (Đắk Lắk), tôi được ngắm nhìn những ngôi nhà dài bằng gỗ lâu niên của người Ê Đê đẹp đến nao lòng. Ấn tượng đầu tiên là 2 chiếc cầu thang dẫn lên nhà sàn còn in đậm vết thời gian.

Vấn vương bông gòn

Vấn vương bông gòn

(GLO)- Trong vườn còn sót lại một cây gòn. Đến mùa, chúng bung ra những bông nhẹ bẫng, mềm như mây trắng vắt ngang trời, theo gió tản mát muôn phương.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

(GLO)- "Gia Lai một hai ba" của Nguyễn Thanh Mừng dẫn người đọc qua những nẻo đường dốc đèo, qua tiếng thác reo và chiêng cồng, để gặp lại khí phách người xưa. Mỗi hình ảnh, mỗi nhịp thơ là một lát cắt vừa hoang sơ, vừa tự hào về bản sắc không thể phai mờ của đại ngàn Tây Nguyên.

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

(GLO)- Giữa những cơn gió xào xạc của núi rừng Tây Nguyên bỏng rát, bài thơ “Biên cương mùa gió” của Lê Vi Thủy như thổi vào lòng người nỗi xúc động lặng thầm. Từ ánh mắt trẻ thơ đến no ấm buôn làng và những giọt mồ hôi người lính, tất cả hòa quyện trong khát vọng yên bình nơi địa đầu Tổ quốc.

Từ trong câu ca nghĩa tình

Từ trong câu ca nghĩa tình

(GLO)- Trước việc Bình Định-Gia Lai chuẩn bị về một nhà, chuẩn bị một hành trình mới của đất nước, địa phương và cá nhân, người viết chợt nhớ… chuyện xưa, “cố tình” tìm mối liên hệ với những điều nhỏ nhặt.

Tổ quốc trong tim

Thơ Lenguyen: Tổ quốc trong tim

(GLO)- Bài thơ “Tổ quốc trong tim” của tác giả Lenguyen là lời tri ân sâu sắc với cha ông đã hy sinh vì độc lập dân tộc. Từ Cửu Long đến Trường Sơn, từ Điện Biên đến Sài Gòn, một Việt Nam bất khuất vươn lên giữa máu và hoa, rạng ngời sắc cờ Tổ quốc.

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

(GLO)- Trong nhịp sống hiện đại hối hả, bài thơ "Lòng quê" của tác giả Đào An Duyên là tiếng vọng thầm lặng mà day dứt. Người xa quê, dù ở đâu chăng nữa vẫn mang trong tim nỗi nhớ cội nguồn. Qua hình ảnh nước xuôi nước ngược, bài thơ gợi về sự gắn bó thiêng liêng giữa con người và quê hương.