Đến năm 2000, nhiều làng phong vẫn còn là “ốc đảo”, gần như biệt lập với thế giới bên ngoài. Tôi đã đến hàng chục làng phong như thế ở các huyện: Chư Prông, Chư Păh, Mang Yang… Tuy nhiên, ấn tượng nhất vẫn là làng Khơ, xã Ia Boòng, huyện Chư Prông. Ấn tượng ngay từ khi tiếp xúc với Trưởng thôn Rơ Châm Biu. Ông Biu được bầu làm Trưởng thôn bởi ông là người duy nhất của làng biết chữ (được học 9 tháng xóa mù). Dù vậy, ông cũng không biết mình sinh năm nào. Ông bị liệt một chân từ nhỏ, vì thế mới lấy “vợ cùi” rồi bị làng đuổi vào đây. Suốt lúa xong chỉ ăn được 1 tháng là hết nhưng ông vẫn “tự hào” hơn hẳn nhiều người trong làng “bởi có nhà chưa bao giờ có được bữa cơm no, quanh năm cứ lá mì luộc chấm muối ăn miết miết”. “Nhưng cái đói chưa phải là nỗi khổ nhất của làng đâu-ông Biu than thở-Con nít làng này ra làng Tnao xin học, làng Tnao đuổi tất cả về vì sợ lây. Còn lũ thanh niên, muốn bắt vợ, bắt chồng chỉ biết nhắm trong làng. Thế nên, con gái mới 13 tuổi, thậm chí có đứa mới 11 tuổi đã bắt chồng”.
Sản phẩm đan lát của một bệnh nhân phong làng Bluk Blui. Ảnh: Ngọc Tấn |
Giã từ cuộc sống đói nghèo cùng cực, đời sống người dân ở các làng phong bây giờ đã thay đổi nhiều. Với các chương trình kinh tế-xã hội của Nhà nước, hạnh phúc lớn lao nhất của những con người một thời bị ruồng bỏ, xa lánh là được mở cánh cửa cuộc sống với thế giới bên ngoài. Cách nay đã khá lâu, tôi có dịp trở lại làng Bluk Blui (xã Ia Ka, huyện Chư Păh). Đây là ngôi làng được hình thành từ năm 1963, khi một số người bị bệnh phong ở nhiều vùng của tỉnh Gia Lai và Kon Tum về sinh sống. Nhờ sự tuyên truyền tích cực của chính quyền, trong làng từ lâu đã không còn sự kỳ thị, xa lánh đối với những người bị bệnh. Dân làng đoàn kết giúp nhau làm ăn. Những người bị bệnh nhẹ còn được thuê làm các công việc như: bỏ hom mì, cấy lúa, vặt chồi cà phê, thu hoạch bời lời… Từ đó mà cái đói đã được dân làng xóa bỏ từ lâu. Ngay những người bị bệnh nặng cũng không chịu đầu hàng số phận, không ỷ lại sự hỗ trợ của Nhà nước, của cộng đồng. Dù chân tay bị tàn phế, họ vẫn làm ra những chiếc gùi, chiếc thúng rất đẹp.
Ông Rơ Châm Kơmlo bị câm điếc, mất hết 10 ngón chân, bàn tay trái mất 2 ngón cuối nhưng vẫn là một tay đan gùi có tiếng ở làng. Gùi ông đan rất đẹp và bền nên nhiều người đến tìm mua. Đan lát là công việc mang lại niềm vui và thu nhập nên ông rất chăm chỉ. Ông sống một mình trong căn phòng nhỏ nhưng gọn gàng, ngăn nắp. Ông A Dai, người dân tộc Xê Đăng may mắn hơn là có một gia đình trọn vẹn. Tuy vợ chồng ông đều bị bệnh phong, mất hết bàn chân nhưng các con đều lành lặn, khỏe mạnh. Hàng ngày, ngoài việc đi làm thuê, ông cùng vợ vót tre đan gùi rồi mang ra chợ bán. Khi tôi ghé thăm nhà, ông A Dai vui vẻ khoe những chiếc gùi vừa hoàn thành và nói: “Dù Đảng, Nhà nước quan tâm, những người tốt bụng thường đến tặng gạo, mắm nhưng dân làng mình không ai muốn ngồi một chỗ trông chờ. Ai còn sức, còn làm được việc gì thì còn gắng đỡ đần con cháu”.
Rời làng Bluk Blui khi mặt trời chưa đứng bóng, nụ cười rạng rỡ của ông A Dai, Rơ Châm Kơmlo khiến tôi cảm giác những chuyện kỳ thị khủng khiếp cách nay chưa xa chỉ là những chuyện cổ tích từ thuở xa xăm nào.