Mạch ngầm sông Ba - Kỳ 2: “Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ”

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Ư(GLO)- Đỗ Trạc thường đọc cho bạn bè ở vùng An Sơn nghe trong giai đoạn anh từ Huế trở về quê để chờ thời, chuẩn bị cho một hành trình mới trong đời, đó là những câu đầy trăn trở trước thời cuộc: “Nào ai tỉnh, nào ai say/Lòng ta ta biết, chí ta ta hay/Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ/Hà tất cùng sầu đối cỏ cây…” (Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác-người theo phong trào Đông Du của Phan Bội Châu và phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh). Một số thanh niên và trí thức nông thôn ở An Khê bấy giờ đang hoang mang, đứng ở ngã ba đường. Không khí chiến tranh khá ngột ngạt bao trùm khắp nơi, các tổ chức yêu nước bị giặc khủng bố, đàn áp.

Ở Gia Lai, phong trào tiến bộ trong giới công nhân ở các đồn điền của Pháp bị giải tán, thanh trừng. Một nhóm thầy giáo ở Cửu An, Tân An như: Thanh Huy, Nguyễn Đình Bá, Trợ Nhơn có tư tưởng tiến bộ, đấu tranh cho dân chủ, dân sinh đã bị Pháp bắt đi đày. Một số người có tư tưởng dựa vào quân Nhật để chống thực dân Pháp như: Nguyễn Hữu Phương, Đặng Xước, Đỗ Bá… cũng bị Pháp bắt giam khiến lòng người dân rối bời.

Tượng Anh hùng Đỗ Trạc tại trụ sở UBND xã Cửu An, thị xã An Khê. Ảnh: L.Đ.N

Tượng Anh hùng Đỗ Trạc tại trụ sở UBND xã Cửu An, thị xã An Khê. Ảnh: L.Đ.N

Khi Đỗ Trạc gác bút nghiên về quê đã chứng kiến nhiều cảnh áp bức của giặc đối với người dân và cảnh bắt bớ, đối xử bất công với giới trí thức ở địa phương nên anh hết sức cảnh giác, bình tĩnh để nhìn rõ con đường mình phải đi. Một số người tiếp cận với Đỗ Trạc, thấy anh có bằng cấp, hiểu biết rộng và nhanh nhẹn, họ khuyên: “Anh có tri thức nên xin vào làm viên chức cho các công sở để có đồng lương nuôi bản thân, gia đình và có chút địa vị trong xã hội! Bây giờ, ở nhà làm nông khó đủ cơm no, áo mặc, thuế má thì cao, cực khổ trăm bề. Anh được cha mẹ cho ăn học đến chừng ấy mà không chịu ngồi bàn giấy để chân lấm tay bùn làm sao đáp trả công ơn sinh thành, dưỡng dục của phụ thân?”.

Kể ra, họ nói cũng có cái lý. Biết bao người cũng học hành như anh, cũng đang làm việc trong bộ máy công quyền của chúng đấy thôi! Nhiều người trong đó còn âm thầm tìm cách giúp hoặc tham gia các tổ chức yêu nước để chống lại bọn thực dân, như ông Nguyễn Đường, Phan Bá… đang làm Thư ký Tòa sứ, Tòa Hành chính ở Pleiku; mấy ông này luôn tìm cách chống lại bọn Tây và thường bị chúng để ý và kỷ luật…

Nói thì đơn giản vậy nhưng trong thực tế có lắm điều phức tạp mình không thể lường hết được. Anh Đỗ Trạc đem những điều băn khoăn, lưỡng lự đó tâm sự với cha mẹ và anh chị em trong gia đình. Cha anh-ông Đỗ Chuyên, người trọng nghĩa khí-đã khuyên con trai: “Gia đình mình xưa nay không có ai làm gì cho giặc để mang tiếng là kẻ phản quốc. Giữa thời buổi loạn ly thế này, con không thể ra tiếp tay với lũ tham tàn đó được. Con có học hơn người nên nghĩ ra một công việc làm ăn lương thiện để kiếm sống, lập gia đình. Cha tin rằng sức dài vai rộng, có tri thức như con không thể thất nghiệp được”.

Những lời của cha già, Đỗ Trạc thấm tận tâm can. Những suy tư trong anh bấy lâu nay đã bật dậy với một quyết tâm để không lãng phí thời gian của tuổi thanh xuân.

Trước hết, anh nghĩ cần phải thể hiện mình có thực lực mới mở rộng được thanh thế và tập hợp được lực lượng, tìm ra con đường chính nghĩa mới có thể tham gia vào chuyện đại sự. Muốn đứng vững phải có nghề nghiệp ổn định. Nghĩ vậy, Đỗ Trạc bàn với gia đình hỗ trợ anh ít vốn ban đầu ra An Khê tìm chỗ thuận lợi để thuê làm nơi mở tiệm cho thuê sách báo và lập hiệu thuốc để chữa bệnh cho dân. Đây là 2 lĩnh vực khả năng anh có thể tự xoay xở được, với lại ở miền sơn cước này ít người kinh doanh. Riêng lĩnh vực sách báo, dường như ở đây chưa có tư thương nào mở tiệm cho thuê. Sách cũ của anh sau bao năm học tập, vừa mua vừa được bạn bè tặng cho anh đem về nhà cũng kha khá, cộng với số sách huy động đóng góp của một số thầy giáo, giới trí thức ở địa phương. Báo chí thì anh đặt một số loại báo có tư tưởng tiến bộ với giá gốc của các tòa soạn có chiết khấu công phát hành.

Công việc này tuy không giàu có gì nhưng đổi lại cung cấp, phổ biến được tri thức, thông tin cho người dân. Còn sở trường bốc thuốc Bắc-Nam, anh Đỗ Trạc được thừa hưởng từ người cha. Sau này ra Huế học, anh có giao du với một số lương y nên học được những bài thuốc cơ bản chữa các bệnh thông thường, đồng thời đọc toa bằng Hán tự (Hán dược) để bốc thuốc cho bệnh nhân. Hành nghề được một thời gian có tiến triển khá, anh Đỗ Trạc mở rộng giao lưu, nhất là giới trí thức nông thôn và thanh niên trong vùng thường xuyên gặp gỡ trao đổi vấn đề chính trị-xã hội, chuyện thời sự, tình hình trong nước và quốc tế.

Có được chút vốn, Đỗ Trạc kết hợp với anh cả ở An Điền để mở lò gạch và sắm mấy cỗ xe bò chở hàng hóa, vật liệu để phục vụ người dân. Nhờ vùng đất An Điền-Cửu An có chất đất sét phù hợp và những người thợ lành nghề ở Bình Khê lên giúp nên lò gạch-ngói của anh em nhà Đỗ Trạc làm ăn phát đạt, nhận được nhiều đơn hàng của người dân. Công việc làm ăn khá thuận lợi nhờ sự tính toán hợp lý, giao thương rộng rãi và giá cả phải chăng nên chuyện thiếu ăn thiếu mặc đến thời điểm này anh Trạc có thể lo cho cha mẹ già chu toàn. Thời gian rảnh, anh tham gia công tác xã hội, giúp đỡ những gia đình hoạn nạn, nghèo đói, vận động thanh niên rèn luyện thân thể, đọc sách báo mở mang trí lực.

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Những người mẹ đặc biệt

Những người mẹ đặc biệt

Lặng lẽ tồn tại suốt gần 60 năm qua, cô nhi viện Phú Hòa (xã Tịnh Ấn Tây, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) được nhiều người gọi với cái tên “ngôi nhà đặc biệt”, bởi nơi đây có những phụ nữ hy sinh cả đời để trở thành mẹ của hàng trăm đứa trẻ mồ côi, khuyết tật, bị bỏ rơi...

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Cùng với mục tiêu đánh chiếm pháo đài Đồng Đăng, quân địch dồn lực lượng để bao vây, đánh chiếm cứ điểm hang Đền Mẫu án ngữ con đường dẫn đến thị trấn Đồng Đăng. Tại đây, quân và dân địa phương đã kiên cường bám trụ 3 ngày đêm chống lại quân xâm lược.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Cán bộ Công an phường Phù Đổng (TP. Pleiku) hướng dẫn nhân viên Khách sạn Khánh Linh đăng ký lưu trú qua phần mềm dịch vụ công trực tuyến. Ảnh: T.T

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ 1: Khi hệ thống chính trị cùng vào cuộc

(GLO)- Ngày 6-1-2022, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 06/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030” (Đề án 06).

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa nước bên bờ dòng Kinh Giang, xã Tịnh Khê (TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) gắn liền với lịch sử kháng chiến thống nhất đất nước. Hiện đây là nơi mưu sinh của người dân và là điểm du lịch hấp dẫn.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…