Kỷ vật về tình quân dân

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Bảo tàng tỉnh Gia Lai đang lưu giữ rất nhiều hiện vật lịch sử thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Hầu hết hiện vật đều do cán bộ và cựu chiến binh từng chiến đấu tại chiến trường Gia Lai trao tặng. Trong số đó, chiếc ca nhôm của ông Nguyễn Hùng (Lê Tam)-nguyên Bí thư Tỉnh ủy là “kỷ vật về tình quân dân”.
Ảnh: Nguyễn Anh Minh
Ông Nguyễn Hùng (tên thường gọi là Lê Tam). Ảnh: Nguyễn Anh Minh
Ông Nguyễn Hùng (tên thường gọi là Lê Tam) sinh năm 1934 tại thôn Mỹ Trang, xã Phổ Cường, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Xã Phổ Cường trong kháng chiến chống Pháp là 1 trong 2 xã kiểu mẫu của Liên khu 5. Nơi đây đã sinh ra nhiều cán bộ sĩ quan trung cao cấp cho Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 1-1946, ông Nguyễn Hùng dạy bình dân học vụ ở thôn Mỹ Trang. Giữa năm 1948, ông tham gia Hội Nông dân cứu quốc huyện Đức Phổ. Đầu năm 1950, ông tình nguyện lên Tây Nguyên công tác. Tổ chức phân công ông làm văn thư Huyện ủy Đak Bơt, rồi làm Đội trưởng Đội vũ trang xây dựng, kiêm Bí thư Đảng ủy xã Đê Ar, sau đó là xã Yang Nam và xã Sró (huyện Đak Bơt, tỉnh Gia Kon). Do hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao nên ông Nguyễn Hùng được kết nạp vào Đảng ngày 27-10-1950.
Sau Hiệp định Genève (1954), ông Nguyễn Hùng được tổ chức phân công ở lại Gia Lai hoạt động, công tác tại Văn phòng Huyện ủy huyện 7. Sau đó, ông được cử làm Bí thư xã Ya Hội rồi Bí thư xã Sró. Đến cuối năm 1960, ông chuyển lên làm cán bộ Tuyên huấn Tỉnh ủy, sau qua phụ trách Trường Đảng tỉnh Gia Kon. Thời gian công tác sau này, ông làm Bí thư Huyện ủy các huyện 1, 6, 5, 8, 4 và Mang Yang. Từ tháng 5-1996 đến 12-1999, ông là Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Gia Lai, Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh, Ủy viên Đảng ủy Quân sự Quân khu 5. Năm 2001, ông nghỉ hưu và mất năm 2013.
Chiếc ca nhôm của ông Nguyễn Hùng do các chiến sĩ Đoàn Chiến Thắng (tên khi mới thành lập của Sư đoàn 320, Quân đoàn 3) làm bằng ống pháo sáng thu được của quân đội Mỹ. Khi Ban Chỉ huy Sư đoàn 320 từ B3 xuống đứng chân ở H4 (khu 4) đã tặng ông Nguyễn Hùng chiếc ca nhôm này. Lúc đó, ông là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Huyện ủy H4.
Chiếc ca nhôm có dạng hình trụ, đường kính 7,7 cm, có nắp đậy và quai cầm. Nắp đậy được buộc dây dù nối với quai cầm để tránh bị rơi. Quai cầm được bọc bởi một lớp lưới bằng hai loại dây nhựa mềm màu vàng và màu xanh, đan thủ công với nhau rất đẹp và chắc chắn. Trên thân ca nhôm khắc thủ công dòng chữ “Đoàn Chiến Thắng kính tặng đ/c Tam”.
Chiếc ca nhôm của ông Nguyễn Hùng (Lê Tam). Ảnh: Nguyễn Anh Minh
Chiếc ca nhôm của ông Nguyễn Hùng (Lê Tam). Ảnh: Nguyễn Anh Minh
Thời chiến tranh, cán bộ, chiến sĩ chủ yếu sử dụng những chiếc ca tráng men do Trung Quốc sản xuất. Vì vậy, chiếc ca nhôm trở nên nổi bật. Ông Nguyễn Hùng rất thích chiếc ca nhôm do Đoàn Chiến Thắng tặng. Ông luôn mang theo nó bên mình. Trong suốt 15 năm giải quyết vấn đề FULRO ở Gia Lai, bám trụ ở các làng tại địa bàn trọng điểm Mang Yang, ông vẫn luôn giữ chiếc ca nhôm bên cạnh. Sau này nghỉ hưu, ông vẫn sử dụng chiếc ca này để uống nước. Trong lá thư gửi kèm theo đến Bảo tàng tỉnh ngày 19-5-2008, khi hiến tặng hiện vật, ông gọi chiếc ca nhôm là “kỷ vật về tình quân dân”. Ông Nguyễn Hùng cũng không quên dặn dò những người làm bảo tàng là khi ghi chú thích cho hiện vật ông tặng phải ghi “hết sức khiêm tốn”. Ngoài chiếc ca nhôm, ông Nguyễn Hùng còn hiến tặng nhiều hiện vật quý liên quan đến cuộc đời hoạt động cách mạng của mình trên mảnh đất Gia Lai.
Đối với những người đã từng trải qua sự khó khăn, gian khổ, hy sinh trong chiến tranh thì mọi vật bình thường trong đời sống sinh hoạt của họ đều được xem như kỷ vật vô giá. Nhưng để góp phần phát huy truyền thống, giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho thế hệ trẻ, họ đã sẵn sàng hiến tặng các kỷ vật đó cho bảo tàng. Ông Nguyễn Hùng cũng đã tặng chiếc ca nhôm “kỷ vật về tình quân dân” cho bảo tàng bởi lý do như vậy.
NGUYỄN ANH MINH

Có thể bạn quan tâm

Ông từ giữ đình cứu sống cây đa cổ thụ

Ông từ cứu sống cây đa cổ thụ ở An Khê đình

(GLO)- Vô tình bị lửa “thiêu”, cây đa cổ thụ phía sau An Khê đình (Khu di tích Tây Sơn Thượng đạo, phường An Khê) suy yếu dần, có nguy cơ bị chết. Với tinh thần trách nhiệm cao, ông Ngô Văn Đường-Câu đình (người trông giữ, hương khói đình làng) đã cứu sống cây đa này.

Già làng “2 giỏi” của xã Ia Phí

Già làng “2 giỏi” của xã Ia Phí

(GLO)- Ông Rơ Châm Khir (SN 1954, làng Kênh, xã Ia Phí, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai) không chỉ có đôi tay tài hoa vẽ những bức tranh sơn dầu, tượng gỗ dân gian đặc sắc, mà còn là già làng uy tín được cộng đồng tin tưởng.

Dùng mặt nạ kỹ thuật số để phục hồi tranh. (Ảnh: Franetic)

Công nghệ đột phá phục chế tranh cổ chỉ trong vài giờ

(GLO)-Với những bức tranh có niên đại hàng thế kỷ, bị hỏng nặng, việc phục chế gặp nhiều rủi ro và tiêu tốn thời gian. Một bước đột phá về công nghệ vừa được các nhà khoa học thử nghiệm thành công, đã giải quyết được khó khăn này, đó là phương pháp mặt nạ kỹ thuật số.

Đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi

(GLO)- Người Tây Nguyên làm du lịch không chỉ bằng khu nghỉ dưỡng, mà còn bằng lòng hiếu khách và nghệ thuật kể chuyện. Vậy nên, đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi mà hãy đánh thức nó bằng chính giọng nói của rừng, bằng bàn tay của bà con và bằng tình yêu với buôn làng của mình.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

null