Kinh ngạc về cách người Đại Việt chữa bệnh bằng Đông y ở thế kỷ 17

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News
Những người châu Âu đến Đại Việt thế kỷ 17 để lại qua sách vở nhiều thông tin về văn hóa, tín ngưỡng, lịch sử... Các vấn đề về Đông y, bốc thuốc gây kinh ngạc đối với họ cũng được ghi chép kỹ lưỡng.

Vua Lê vi hành. ẢNH: THƯ VIỆN HOÀNG GIA LUÂN ĐÔN
Vua Lê vi hành. ẢNH: THƯ VIỆN HOÀNG GIA LUÂN ĐÔN
Đọc tài liệu xưa viết về Đại Việt thế kỷ 17 sẽ thấy Cristoforo Borri, Alexandre de Rhodes và Joseph Tissanier dành sự khen ngợi cho Đông y cũng như các bài thuốc gia truyền của người Việt trong các bản tường trình họ để lại.
Trong cuốn Xứ Đàng Trong (Thanh Thư dịch, NXB Hà Nội), Borri nhận định: “[…] bằng kinh nghiệm cho thấy rằng một số bệnh tật mà thầy thuốc Âu châu không tìm ra cách chữa, thì lại khỏi một cách dễ dàng nhờ thầy thuốc bản địa. Đôi khi thầy thuốc của chúng tôi thấy hoang mang với một con bệnh nào đó thì liền gọi thầy thuốc trong vùng tới chữa” (tr. 94).

Chân dung Alexandre de Rhodes. ẢNH: T.L
Chân dung Alexandre de Rhodes. ẢNH: T.L
Còn De Rhodes,trong cuốn Hành trình và truyền giáo (Nguyễn Khắc Xuyên dịch, NXB Hồng Đức), viết về Đông y ở Đàng Trong: “Trong khắp xứ này, người ta rất nghiêm chỉnh và giữ rất nhiều nghi thức để đậu bằng tiến sĩ, thế mà tôi bỡ ngỡ không thấy họ nói tới tiến sĩ y khoa. […] Thế nhưng tôi đã nằm trong tay họ và mục kích điều họ muốn làm, tôi có thể nói họ chẳng thua các bác sĩ của ta và hơn nữa trong một vài môn, họ giỏi hơn ta nữa. Vẫn biết rằng nơi họ không có trường đại học để học ngành y khoa, nhưng đây là một môn cha truyền con nối. Họ có những sách thuốc riêng, không bao giờ ra khỏi gia đình, trong sách có nhiều bí quyết của kỹ thuật họ không bao giờ truyền cho ai cả” (tr. 192). Trong cuốn du khảo của mình (Paris, 1663), Tissanier bảo rằng các thầy thuốc Đàng Ngoài chữa được các bệnh ban đỏ, động kinh, lao phổi và chứng nghễnh ngãng. Về sách thuốc của thầy thuốc bản xứ, ông chép: “Thật là kỳ lạ khi nhìn vào khoa chữa bệnh của những thầy thuốc xứ Đàng Ngoài. Với khá ít sách vở, nhưng được nghiên cứu kỹ, họ tìm được những thang thuốc chữa khỏi được những chứng bệnh mà ở châu Âu có vẻ đành chịu bó tay” (Việt Nam thế kỷ 17-18-19 qua các nguồn tư liệu phương Tây, Nguyễn Thừa Hỷ tuyển dịch, tr. 57).
Cách bắt mạch, khám bệnh và thói quen chữa bệnh của lương y ở Đại Việt cũng được Borri nhắc đến: “Khi tới gần giường bệnh nhân thì họ nghỉ ngơi một lát để lấy lại bình tĩnh sau khi đi đường. Tiếp theo họ bắt mạch cho người bệnh rất lâu với sự cẩn thận và thấu đáo…” (tr. 95) Nếu bệnh không thể chữa được, lương y bảo: “Tôi không có thuốc cho bệnh này”.
Nếu chữa được, họ sẽ nói: “Tôi có những thứ thuốc có thể cứu được, và trong bao nhiêu ngày đó thì bệnh sẽ khỏi” (tr. 95). De Rhodes thì viết: “Lương y vừa tới thăm bệnh nhân thì liền bắt mạch, và hơn một khắc đồng hồ ông chỉ làm việc này. Rồi bó buộc ông phải nói cho bệnh nhân biết căn bệnh bởi đâu, và hết các chi tiết con bệnh từ lúc nó phát sinh” (tr. 193). Tissanier kể rằng: “Họ [thầy thuốc] chỉ cần chạm tay bắt mạch mà không cần nói gì với người bệnh, và sau khi khám họ nói về bản chất và những tác động của căn bệnh” (tr. 58).
Về việc thuốc uống của một số người dân Đại Việt, Borri tả: “Thuốc họ dùng […] có vị thơm ngon như món canh […]. Người bệnh được cho uống nhiều lần trong ngày […]; và những loại thuốc này không làm rối loạn sức khỏe, trái lại chúng trợ giúp cho các hoạt động tự nhiên bài tiết chất độc ra khỏi cơ thể người bệnh một cách nhẹ nhàng” (tr. 95-96). De Rhodes viết: “Hết các lương y ở xứ này đều bốc thuốc […]. Họ cho đơn rồi dạy cách sắc cho bệnh nhân uống, […] thuốc của họ không khó uống như thuốc của ta…” (tr. 193). Tissanier bảo rằng: “Những thang thuốc được dùng phổ biến chỉ là những rễ hoặc cây cỏ chọn lọc, thường pha thêm một chút gừng để cho người ốm uống” (tr. 58).
Về giá cả và thù lao họ kể lại các chi tiết khá thú vị, Borri bảo rằng: “Họ thương lượng giá cả để hồi phục sức khỏe cho bệnh nhân và thống nhất cái giá cao nhất hoặc thấp nhất tùy theo giao ước hai bên, họ viết hẳn một văn tự công khai giá cả thỏa thuận. […] Nếu bệnh nhân hết bệnh đúng ngày như đã định thì sẽ trả số tiền thỏa thuận; nếu không khỏi thì thầy thuốc mất tiền thù lao và thang thuốc” (tr. 95). De Rhodes cũng đồng tình: “Khi lương y bắt đầu khám bệnh thì bàn ngay đến giá cả trả cho lương y, nhưng chỉ được nhận khi bệnh nhân khỏi; nếu bệnh nhân chết thì khốn cho lương y không được gì” (tr. 194). Không thấy Tissanier đề cập đến chuyện này.
Tissanier còn kể chuyện lương y điều trị hiệu quả bệnh ban đỏ ở Đại Việt - một căn bệnh rất nguy hiểm ở châu Âu lúc bấy giờ, hoặc dùng “đá rắn” hút nọc độc rắn rất hiệu nghiệm; Borri tường thuật với sự khâm phục về chuyện lương y dùng lông ngỗng gắn những mảnh sứ nhọn trích máu… Hoặc còn đó những thiếu sót khi không thấy họ đề cập đến chuyện châm cứu. Mặt khác, một số mô tả của họ thực sự đáng lưu tâm, như việc bảo mật các phương thuốc bí/gia truyền hiệu nghiệm, thực tế này phần nào đó đã ngăn cản đà phát triển của y học nói chung…

Đám tang một người quyền quý Đàng Ngoài. ẢNH: THƯ VIỆN HOÀNG GIA LUÂN ĐÔN
Đám tang một người quyền quý Đàng Ngoài. ẢNH: THƯ VIỆN HOÀNG GIA LUÂN ĐÔN
Ngoài ca tụng, cũng có những nhận định, đánh giá Đông y không cao trong sự so sánh với Tây y, như Samuel Baron và Filippo Marini đã viết trong sách A Description of the Kingdom of Tonqueen (Mô tả vương quốc Đàng Ngoài) và Relation nouvelle et curieuse des Royaumes de Tunquin et de Lao (Mô tả về Đàng Ngoài và Lào). Baron cho rằng, ở Đàng Ngoài mọi cá nhân đều có thể trở thành lương y, họ học nghề thông qua việc "đọc mấy cuốn sách của người Tàu", lương y giỏi cũng có nhưng rất ít còn "lang băm hại người thì chiếm phần nhiều", bệnh hết do người bệnh tự chữa (sợ chết) hơn là do tài chẩn đoán và kê đơn của lương y. Việc trích máu, bắt mạch, giác hơi và một số phương thuốc điều trị dân gian cũng được ông nhắc đến trong sự hiếu kỳ và ngờ vực… Marini thì cho rằng, người Đàng Ngoài đa phần muốn làm lương y hết nhưng chẳng có ai là chuyên nghiệp, cách chữa bệnh và đoán bệnh khá vu vơ và thất thường, các nhà truyền giáo ở xứ này thường đau yếu (do khí hậu) nhưng không ai dám trao mình cho các lương y…
Cũng không quên lưu ý rằng không phải điều gì người nước ngoài quan sát và viết ra cũng đúng và khách quan, nhìn chung từ những tường thuật còn khiếm khuyết của họ chúng ta có được những thông tin quý giá để hiểu hơn về Đại Việt, một giai đoạn lịch sử của Việt Nam trong quá khứ.
Theo Nguyễn Quang Diệu (TNO)

Có thể bạn quan tâm

Cần phát huy giá trị di tích: “Địa điểm vụ thảm sát nhân dân làng Tân Lập năm 1947”

Cần phát huy giá trị di tích: “Địa điểm vụ thảm sát nhân dân làng Tân Lập năm 1947”

(GLO)- Sáng 6-11, tại TP. Pleiku, Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai tổ chức hội thảo khoa học di tích lịch sử “Địa điểm vụ thảm sát nhân dân làng Tân Lập năm 1947, xã Kông Bơ La, huyện Kbang” nhằm hoàn thiện hồ sơ, trình cấp có thẩm quyền đề nghị xếp hạng di tích quốc gia.

Trao giải Cuộc thi đan lát, dệt thổ cẩm truyền thống tạo ra các sản phẩm lưu niệm phục vụ du khách

Trao giải Cuộc thi đan lát, dệt thổ cẩm truyền thống tạo ra các sản phẩm lưu niệm phục vụ du khách

(GLO)- Nằm trong khuôn khổ Tuần lễ hoa dã quỳ-núi lửa Chư Đang Ya, chiều 9-11, tại khu vực sân nhà rông làng Gri, xã Chư Đang Ya (huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai), Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND huyện Chư Păh tổ chức trao giải Cuộc thi đan lát, dệt thổ cẩm truyền thống.

Các nghệ nhân làng Chuet 2 (phường Thắng Lợi) phục dựng lễ báo hiếu cha mẹ tại Làng Văn hóa-Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ảnh: Thu

Lễ báo hiếu của người Jrai

(GLO)- Lễ báo hiếu cha mẹ là tập tục văn hóa truyền thống đã có từ xa xưa trong đời sống của cộng đồng người Jrai. Đây là dịp để những người con đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục và cầu mong thần linh ban sức khỏe cho cha mẹ.

Bảo tồn bản sắc làng Bahnar - Kỳ cuối: Cần phát huy giá trị văn hóa truyền thống

Bảo tồn bản sắc làng Bahnar - Kỳ cuối: Cần phát huy giá trị văn hóa truyền thống

(GLO)- Cách đây gần 18 năm, trong một số công trình điều tra văn hóa các làng đồng bào dân tộc thiểu số ở TP. Pleiku thì người ta xếp một số buôn làng trong khu vực, trong đó có làng Wâu và Ktu (xã Chư Á) là làng tương đối có giá trị, đưa vào diện bảo tồn và phát triển.

Sân trường rộn tiếng cồng chiêng

Sân trường rộn tiếng cồng chiêng

(GLO)- Cứ mỗi buổi sinh hoạt, khuôn viên Trường Phổ thông Dân tộc bán trú THCS Lơ Pang (xã Lơ Pang, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai) lại rộn ràng tiếng cồng chiêng. Âm thanh quen thuộc ấy đến từ đôi tay nhỏ bé của các em học sinh thuộc Câu lạc bộ (CLB) Cồng chiêng của trường.

Người giữ nghề dệt thổ cẩm ở Ia Rsươm

Người giữ nghề dệt thổ cẩm ở Ia Rsươm

(GLO)- Không chỉ dệt thổ cẩm giỏi, chị Rah Lan H’Nghí (SN 1988, buôn Toát, xã Ia Rsươm, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai) còn nhiệt tình chỉ dạy cho chị em trong buôn để góp phần bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc.

Bảo tồn bản sắc văn hóa ở TP. Pleiku dưới góc nhìn mới - Kỳ cuối: Giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa

Bảo tồn bản sắc văn hóa ở TP. Pleiku dưới góc nhìn mới - Kỳ cuối: Giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa

(GLO)- Chính quyền TP. Pleiku đã dành nguồn lực đầu tư để Plei Ốp thành điểm đến của du khách trải nghiệm văn hóa truyền thống và bản sắc dân tộc Jrai thông qua phục dựng một số lễ hội cộng đồng như: cúng giọt nước, pơ thi…

Rơ Châm Nguyên nặng tình với dân ca Jrai

Rơ Châm Nguyên nặng tình với dân ca Jrai

(GLO)-Nhiều năm qua, người dân làng Kte (xã Ia Phí, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai) luôn dành sự yêu mến và kính trọng đối với bà Rơ Châm Nguyên bởi bà biết hát và lưu giữ nhiều bài dân ca của dân tộc Jrai.