Kâm Bul - Lễ cầu an của người Gia Rai

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Cùng với các lễ hội liên quan đến Yang (Dàng), lúa hay mừng nhà rông… linh thiêng và gần gũi, lễ cầu an (Kâm Bul) của đồng bào Gia Rai (nhánh A Rap) ở làng Ba Rgốc (xã Sa Sơn, huyện Sa Thầy) mang nét đặc trưng.

Nguyên gốc, Kâm Bul để cầu an không bắt buộc phải cúng trâu (hay dê), không cần dựng cây nêu, nhưng sau này, do kết hợp với một số sự kiện trọng đại khác của làng nên Kâm Bul được tổ chức với quy mô cộng đồng làng vẫn có thể được lồng ghép một số nội dung liên quan đến dựng cây nêu.

Theo ông A Nhi - người thích sưu tầm, tìm hiểu văn hóa dân gian của người Gia Rai ở làng Ba Rgốc, trước khi phát rẫy, chuẩn bị vào mùa gieo tỉa mới, dân làng làm lễ Kâm Bul để xua đuổi xui xẻo, rủi ro, cầu mong may mắn tốt lành, mọi người mạnh khỏe, bình an, mùa màng bội thu.

Gắn với tập quán canh tác nương rẫy mỗi năm một vụ, ngày trước, hầu như năm nào, người Gia Rai cũng làm lễ Kâm Bul; song sau này, theo sự thay đổi thói quen sinh hoạt - sản xuất, lễ cầu an ngày càng thưa dần. Đặc biệt, sau nhiều năm vắng bóng, gần đây, làng Ba Rgốc mới có dịp tái hiện Kâm Bul truyền thống, nên lễ này thực sự là dịp vui, dịp tốt được dân làng chào đón.

Không cầu kỳ, kỹ lưỡng như một số lễ hội có dựng cây nêu và ăn trâu, ăn dê, Kâm Bul được tiến hành khá đơn giản với lễ vật chính là con heo, ghè rượu. “Tuy vậy, Kâm Bul luôn đảm bảo các nghi lễ trang trọng và nghiêm túc tuân thủ những điều cấm kỵ liên quan đến tâm linh của mọi người”- già A Bleng ở làng Ba Rgốc lưu ý.

 

Chung tay chuẩn bị lễ hội. Ảnh: TN
Chung tay chuẩn bị lễ hội. Ảnh: TN


Theo trình tự tổ chức Kâm Bul, trước ngày được chọn, trai trẻ trong làng đã vào rừng chặt cây, lồ ô, le mang về tập trung ở gần nhà rông. Riêng bông lau thì sáng sớm hôm tổ chức lễ cầu an mới được lấy về cho tươi mới. Vì Kâm Bul được tổ chức trước kỳ chọn rừng, phát rẫy, đó cũng là mùa bông lau nở rộ, nên rất thích hợp khi lấy loại bông này để chế tác hình nộm người dùng trong buổi lễ.

Sau nhiều năm bỏ ngỏ, ở Kâm Bul lần này, các già làng vẫn là những “thợ cả”, vừa “chỉ đạo” vừa trực tiếp đảm nhận các phần việc chuẩn bị và tiến hành nghi lễ. Tuổi cao sức yếu, song già A Bleng vẫn nhanh chóng hoàn thành ba chiếc lồng nan bằng lồ ô với ba kích cỡ khác nhau để làm khung của hình nộm. Từ “bộ khung” vững chắc này, già làng A Sưp và ông A Dưm cẩn thận gắn từng cây bông lau vào cho kín và hợp lý, khéo léo tạo nên dáng hình con người. Một số nam giới khác thì khẩn trương chẻ đẽo cung tên, khung nỏ, những chiếc đao lớn, đao nhỏ… Mỗi hình nộm bằng bông lau được gắn mặt nạ, tạo dáng cầm nỏ là hoàn chỉnh hình người được dùng trong lễ cầu an. Trong số 3 hình nộm người, có một hình đàn ông, một hình phụ nữ và một hình trẻ nhỏ.

Trong lúc các vị cao niên tập trung làm hình nộm thì các chàng trai nhanh tay làm thịt heo, các chị em và các cháu gái nhặt rau, chuẩn bị rượu cần, cơm lam nấu trong ống nứa.

Khi mọi việc hoàn tất, già làng A Sưp tập hợp bà con và chủ trì tiến hành lễ cầu an. Sau nghi lễ “mở màn”, già làng tập trung một “đội quân” sẵn sàng hành lễ. Được chọn tham gia vào lực lượng này trong buổi lễ năm nay là các bé trai nhanh nhẹn, tháo vát, trang nghiêm với đao, kiếm trên tay. Các “chiến binh” cùng “xuất chinh”, kéo về cuối làng, tỏa ra đầu làng, đến một số gia đình (mang tính tượng trưng) nhằm xua đuổi mọi điều rủi ro, xui xẻo đã gặp trong năm cũ. Sau đó, “đội quân” trở lại nhà rông.

 

Làm hình nộm người. Ảnh: T.N
Làm hình nộm người. Ảnh: T.N


Già làng lấy bát tiết heo pha với nước rượu lần lượt bôi lên ba hình nộm do những người già có uy tín của làng tự tay mang vào. Vừa bôi rượu tiết lên hình nộm, già làng vừa cất lời khấn cầu cho dân làng được mạnh khỏe, bình an, tránh xa bệnh tật, tai ương; cầu cho mọi người mọi nhà gặp nhiều may mắn trong sản xuất, gặt hái mùa màng bội thu. Sau khi đã được “làm phép”, ba hình nộm được mang ra ngoài và đặt vào các vị trí đã định: Hình nộm đàn ông được đặt trước nhà rông, hình phụ nữ dựng trước cổng làng, hình nộm trẻ em cắm ở cuối làng. Tất cả đều tượng trưng cho sức mạnh siêu nhiên và ý chí của dân làng chủ động ngăn chặn điều xấu, cái ác xâm nhập vào cộng đồng.

Định vị ba hình nộm, mọi người trở về nhà rông. Già làng thực hiện nghi lễ cuối cùng là cúng ghè. Ở cột chính nhà rông, một chiếc ghè nhỏ đã được buộc sẵn cùng với lễ vật gồm miếng gan heo tươi và thịt đầu heo (nấu chín). Già làng cùng hai vị lão niên uy tín của làng cùng ngồi quanh ghè rượu. Lần này, nghi lễ cầu khấn có phần khác với phần khấn cầu khi bôi rượu tiết heo trước đó, vì trong khi già làng đọc lời khấn chính, người già bên cạnh còn hòa thêm những câu khấn phụ họa, tạo thành chuỗi âm thanh vừa linh thiêng vừa huyền bí.

Khấn xong, già làng khai ghè, mời các vị cao niên thưởng thức trước rồi lần lượt mọi người cùng uống rượu ghè. Đáng chú ý, ghè rượu chỉ có một cần rượu để mọi người uống chung, thể hiện tinh thần đồng cam cộng khổ, cùng chia ngọt sẻ bùi. Thức ăn được dọn ra để mọi người cùng vui. Lễ Kâm Bul kết thúc, mọi người ai về nhà nấy.

Kâm Bul cũng như các lễ hội khác ở làng, mang tính cộng đồng cao. Đây là dịp để mọi người gặp gỡ, chuyện trò, tâm sự, cởi mở sẻ chia. Có một điều rất đáng chú ý là sau khi kết thúc cúng ghè - nghi thức cuối cùng trong lễ cầu an, già làng và các vị cao niên cùng ngồi lại với nhau, khơi mào câu chuyện của cả làng. Mọi người cùng nhìn lại một năm đã qua, dự định về công việc, cuộc sống sắp tới. Chỉ gói gọn trong một ngày và hiện không còn phải “kiêng làng” như tập tục cũ, Kâm Bul như vẫn tiếp thêm cho mọi người, mọi nhà niềm tin và sức mạnh kiên định vượt qua khó khăn, thử thách để bước vào một chặng đường mới gặp nhiều may mắn và gặt hái thành công.

http://www.baokontum.com.vn/van-hoa-the-thao-du-lich/kam-bul-le-cau-an-cua-nguoi-gia-rai-18041.html

Theo THANH NHƯ (baokontum)

Có thể bạn quan tâm

Lễ báo hiếu: Thơm thảo tấm lòng con cái

Lễ báo hiếu, thơm thảo tấm lòng con cái

(GLO)- Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, người Bahnar luôn nhắc nhau: “Phải kính trọng cha mẹ như mặt trăng, kính trọng ông bà như mặt trời”. Khi đã trưởng thành, con cái đều nghĩ đến việc tổ chức lễ báo hiếu cha mẹ (teh nhung ăn kră).

Nâng cao chất lượng các danh hiệu văn hóa ở cơ sở

Nâng cao chất lượng các danh hiệu văn hóa ở cơ sở

(GLO)- UBND tỉnh Gia Lai ban hành QĐ số 60/2024/QĐ-UBND quy định chi tiết tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Thôn, tổ dân phố văn hóa”, “Xã, phường, thị trấn tiêu biểu” để hướng dẫn thực hiện, bảo đảm phù hợp với đặc thù văn hóa và tình hình kinh tế-xã hội của địa phương.

Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia vừa họp, bỏ phiếu thống nhất đề xuất Thủ tướng Chính phủ công nhận Quần thể di tích Tây Sơn Thượng đạo là di tích quốc gia đặc biệt. Ảnh: Ngọc Minh

Chuyện làm hồ sơ di tích Tây Sơn Thượng đạo

(GLO)- Cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, những người làm công tác di sản văn hóa (như cách gọi ngày nay) của tỉnh Gia Lai-Kon Tum bắt tay vào việc thu thập thông tin để làm hồ sơ di tích đề nghị xếp hạng, trong đó có hồ sơ di tích Tây Sơn Thượng đạo.

Chùa Bửu Minh (huyện Chư Păh)

Vọng tiếng chuông ngân

(GLO)- Trên địa bàn tỉnh Gia Lai có nhiều ngôi chùa bắt đầu bằng chữ Bửu như chùa Bửu Minh (huyện Chư Păh), Bửu Thắng, Bửu Nghiêm, Bửu Hải (TP. Pleiku). Riêng cái tên Bửu Tịnh được đặt cho 2 ngôi chùa, 1 ở Ayun Pa, 1 ở Krông Pa. Nhà tôi ở gần chùa Bửu Tịnh (xã Phú Cần, huyện Krông Pa).

Nét đẹp tặng chữ đầu xuân

Nét đẹp tặng chữ đầu xuân

(GLO)- Mỗi dịp Tết đến Xuân về, người dân Việt lại náo nức với những phong tục truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Trong đó, nét đẹp tặng chữ đầu xuân đã trở thành một truyền thống hiếu học của dân tộc và mang ý nghĩa cầu chúc may mắn, tài lộc, hạnh phúc cho năm mới.

Một dòng huyền tích

Một dòng huyền tích

Mỗi lần đi qua cầu Đuống, tôi bất giác nhìn về phía hạ lưu, trong đầu ngân lên mấy câu thơ của Hoàng Cầm “Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh, nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”.

Theo dấu sử thi

Theo dấu sử thi

Tôi về xã Ea Tul (huyện Cư M’gar, Đắk Lắk) vào một dịp ngành văn hóa Đắk Lắk phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức lớp truyền dạy hát kể sử thi (khan) cho lớp trẻ.