
Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương và các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng Đề án trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo (tương tự Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về khoa học, công nghệ).
Nghị quyết này không thay thế các Nghị quyết đã có, mà lựa chọn những vấn đề then chốt nhất, điểm nghẽn lớn hiện nay để tập trung chỉ đạo, tạo chuyển biến rõ ràng, cụ thể trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
Đây là cơ hội lớn của ngành giáo dục để có những chính sách quan trọng tạo sự bứt phá. Phóng viên Báo điện tử VietnamPlus đã có cuộc trao đổi với Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học Nguyễn Đình Đức, Trường Đại học Khoa học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội về vấn đề này.
Ba điểm nghẽn giáo dục đại học
- Thưa Giáo sư, ông đánh giá như thế nào về chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm về việc xây dựng Nghị quyết mới về phát triển giáo dục và đào tạo?
Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm là một quyết định rất kịp thời và có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng. Đây không chỉ là sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục – đào tạo, mà còn thể hiện rõ nhận thức rằng giáo dục là “quốc sách hàng đầu,” là nền tảng phát triển con người, trí tuệ quốc gia và sức mạnh nội sinh của đất nước. Đây cũng là mong mỏi, chờ đợi của ngành giáo dục, trong đó có tôi – một giáo sư của một đại học lớn nhất cả nước.
Việc xây dựng một nghị quyết mới – không thay thế các nghị quyết cũ mà tập trung vào các điểm nghẽn then chốt – cho thấy tinh thần đổi mới quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, gắn với thực tiễn và đặt mục tiêu tạo ra chuyển biến thật nhanh, cụ thể và rõ ràng. Nếu Nghị quyết số 57-NQ/TW là cú hích cho khoa học – công nghệ, thì nghị quyết về giáo dục lần này sẽ là sự thay đổi tư duy rất mạnh mẽ, tạo động lực bứt phá để nâng tầm và chất lượng nguồn nhân lực quốc gia.
- Theo Giáo sư, với giáo dục đại học, đâu là những vấn đề then chốt nhất, điểm nghẽn lớn nhất hiện nay?
Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Theo tôi, có ba điểm nghẽn lớn nhất hiện nay.
Một là chất lượng và chuẩn hóa đội ngũ. Nguồn nhân lực giáo viên, giảng viên vẫn còn thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy, nhất là trong bối cảnh chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo (AI) phát triển như vũ bão và hội nhập quốc tế.

Hai là, cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới. Vẫn còn tư duy hành chính, chưa tạo được môi trường thực sự tự chủ và năng động cho các cơ sở giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học.
Thực tiễn những năm gần đây cho thấy tự chủ đại học như “khoán 10” trong giáo dục, như luồng gió mới đã tạo động lực mạnh mẽ cho một số trường đại học phát triển rất nhanh và vượt bậc trong thời gian qua, nhưng việc tổng kết đánh giá thực tiễn còn chậm, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình tự chủ đại học còn chưa kịp thời và đồng bộ.
Ba là chưa thực sự gắn kết giữa đào tạo với nhu cầu xã hội, doanh nghiệp. Còn thiếu rất nhiều những chương trình “đặt hàng” từ doanh nghiệp để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, kỹ năng nghề nghiệp thiết thực.
Các giải pháp đột phá
- Với các điểm nghẽn trên, theo Giáo sư, cần có những giải pháp, chính sách đột phá như thế nào để tháo gỡ?
Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Trước hết cần đổi mới tư duy trong quá trình sửa đổi Luật giáo dục đại học (cũng như Luật Khoa học công nghệ) lần này. Theo tôi, sửa đổi và xây dựng mới các luật và chính sách không thể là sự chắp vá, không chỉ tháo gỡ những khó khăn hiện tại, mà phải kiến tạo và có tính chất thúc đẩy để các cơ sở giáo dục đào tạo được phát triển, nhà khoa học được cống hiến hết mình, các tổ chức khoa học công nghệ nhanh chóng cho ra đời những công nghệ cao, công nghệ lõi made in Vietnam.
Chúng ta đề ra mục tiêu có những trường đại học top 100 thế giới, có những lĩnh vực khoa học công nghệ top đầu của khu vực và top 30 của thế giới thì Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học cũng như Luật Khoa học công nghệ và các bộ luật khác phải đồng hành cùng với ngành giáo dục để chúng ta phải đạt được mục tiêu đó.
Từ đó, tôi cho rằng cần năm nhóm giải pháp đột phá.
Về thể chế và chính sách, cần ban hành các cơ chế để thực hiện tự chủ thực chất, thông thoáng và mạnh mẽ nhất cho các trường đại học, đi liền với trách nhiệm giải trình minh bạch; tạo hành lang pháp lý thúc đẩy liên kết nhà trường – doanh nghiệp – viện nghiên cứu.
Về phát triển đội ngũ, cần có chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đồng thời có chính sách thúc đẩy hợp tác với các nhóm nghiên cứu mạnh của quốc tế; khuyến khích nhân tài là người Việt Nam và người nước ngoài, và giáo sư người Việt ở nước ngoài về nước tham gia giảng dạy và nghiên cứu.
Đổi mới mô hình và phương pháp giáo dục, mạnh dạn áp dụng những mô hình và phương thức mới, chuyển mạnh từ giáo dục truyền thụ sang phát triển năng lực, kỹ năng; đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, big data vào giảng dạy – kiểm tra – đánh giá; khuyến khích các mô hình giáo dục đa ngành, liên ngành, gắn nghiên cứu với thực tiễn; xây dựng các chương trình đào tạo có chuẩn đầu ra hội nhập với quốc tế.

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho giáo dục với các phòng thí nghiệm hiện đại, hạ tầng và dữ liệu là những yếu tố không thể thiếu.
Có chính sách đãi ngộ, thỏa đáng và đột phá với tri thức, với nhân tài vì với giáo dục đại học, giảng viên là nhà khoa học – nhân tố được xác định là then chốt trong Nghị quyết 57/TW.
- Giáo sư có đề xuất gì cho Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc xây dựng nghị quyết mới?
Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Trước hết phải đổi mới tư duy và cách nghĩ, cách làm từ trước đến nay để tạo nên những đột phá mạnh mẽ và quyết liệt như Nghị quyết 57/TW
Tôi đề xuất Bộ Giáo dục và Đào tạo nên tổ chức lấy ý kiến sâu rộng từ các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý và cơ sở giáo dục để đảm bảo nghị quyết có tính thực tiễn và đồng thuận cao.
Bên cạnh đó, Bộ cần tổng kết thực tiễn, tiếp tục hoàn thiện tự chủ đại học để “khoán 10” trong giáo dục được nhân rộng trong toàn quốc; xác định một số lĩnh vực mũi nhọn, cấp thiết, cũng như triển khai một số mô hình mới, phương thức mới để có chính sách tập trung, thí điểm thành công rồi nhân rộng. Ví dụ như thí điểm tự chủ tài chính – học thuật, hợp tác quốc tế toàn diện ở một số trường đại học trọng điểm.
Bộ nên triển khai sâu rộng STEM, trí tuệ nhân tạo trong toàn bộ hệ thống giáo dục; lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ thứ 2 chính thức giảng dạy trong toàn bộ hệ thống giáo dục từ tiểu học đến đại học; đề xuất xây dựng chiến lược dài hạn về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, coi đây là nhiệm vụ quốc gia có tính chiến lược, tương tự như chương trình phát triển khoa học – công nghệ quốc gia.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng cần đề ra mục tiêu cụ thể năm 2035 Việt Nam phải có một số lĩnh vực, một số trường đại học tố-p 100-200 thế giới; Giáo dục đại học phải đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực trong những lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ chiến lược, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo và đổi mới sáng tạo.
- Giáo sư có kỳ vọng gì vào những chuyển biến của ngành trong thời gian tới?
Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Tôi kỳ vọng Nghị quyết mới sẽ thực sự tạo ra đột phá trong tư duy phát triển giáo dục, chuyển từ chiều rộng sang chiều sâu, từ số lượng sang chất lượng, từ đào tạo đại trà sang đào tạo tinh hoa – đổi mới sáng tạo – hội nhập, từ đó cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, giúp Việt Nam tự chủ tự cường trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, thực hiện thành công những mục tiêu mà Nghị quyết 57/TW đã đề ra.
Từ đó, chúng ta có thể hệ trẻ đầy đủ kiến thức, năng lực, tư duy và bản lĩnh, tài năng để làm chủ đất nước, chấn hưng đất nước giàu mạnh hùng cường, sánh vai với các nước năm châu.
Tôi cũng hy vọng từ Nghị quyết sẽ có những “cú huých” lớn, giúp giáo dục đại học Việt Nam có những chuyển biến nhảy vọt, từng bước lọt vào tốp 100 khu vực và thế giới, và giáo dục phổ thông thực sự phát triển toàn diện, hình thành lớp học sinh sáng tạo, nhân văn, có hoài bão và tinh thần cống hiến.
- Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư!.
Theo Phạm Mai (Vietnam+)