Đây là nét văn hóa truyền thống gắn liền với đời sống sinh hoạt và tín ngưỡng của người Jrai.

Theo quan niệm của người Jrai, lúa, gạo không chỉ là lương thực mà còn là biểu tượng của sự sống, phúc lộc, báu vật do thần linh ban tặng. Khi gieo trồng, thu hoạch hay cất giữ, bà con thường làm lễ cúng để mời và giữ linh hồn lúa ở lại với làng, tránh thất thoát hay bị ma quỷ lấy mất. Gạo được coi là vật thiêng trong mọi lễ cúng. Vì thế, khi ai đó gặp hoạn nạn hay làng tổ chức lễ hội, mọi người đều góp gạo như một cách chia sẻ và gìn giữ sự hài hòa cho cả cộng đồng.
Ông Kpă Pual-người có nhiều năm nghiên cứu về tiếng nói, chữ viết và văn hóa Jrai-cho biết: “Đối với người Jrai, gạo là tài sản quý nhất. Bà con quan niệm đây là hạt của trời cho nên được gọi là pơdai. Từ này biến âm từ “bôh adai”, nghĩa là “quả của trời”. Vì vậy, họ mang gạo đi giúp các gia đình với ý nghĩa là giúp bằng những thứ quý nhất. Không ai nhớ nét đẹp văn hóa này có từ khi nào, nhiều người già trong làng chỉ biết khi họ mở mắt đón ánh mặt trời thì đã biết đến việc này”.
Tương tự, ông Nay Hương-Trưởng thôn Mi Hoan (xã Ia Hiao, huyện Phú Thiện) cho hay: Từ xa xưa, người Jrai ở vùng Đông Nam tỉnh đã có truyền thống góp gạo. Những năm 90 của thế kỷ trước, mỗi khi làng có lễ hội hay đám tang, người dân đến chung vui hoặc chia buồn thường mang theo gạo. Người khá giả góp nhiều, người nghèo góp ít. Tùy từng vùng, khu vực mà mỗi nhà sẽ góp khoảng 6-10 lon gạo. Với người thân thiết trong dòng họ thì có thể góp nhiều hơn.
“Giữa nhịp sống hiện đại, phong tục góp gạo vẫn được người Jrai duy trì, dù hình thức có phần thay đổi. Ngày nay, thay vì chỉ góp gạo hay lương thực, nhiều người còn mang thêm tiền, bánh kẹo, rượu… song vẫn không thể thiếu những bọc gạo trắng ngần”-ông Hương chia sẻ.
Còn theo ông Kpă Pual, hiện nay, bà con ở một số làng dân tộc thiểu số trên địa bàn TP. Pleiku mỗi khi đi thăm người bệnh tại bệnh viện vẫn mang gạo. “Đây không chỉ là nét đẹp văn hóa mà còn thể hiện sự gắn kết trong cộng đồng. Mặt khác, đây cũng là hình thức giáo dục lớp trẻ phải biết quý trọng lương thực và siêng năng lao động tạo ra lúa gạo”-ông Pual nói.
Ở buôn làng người Jrai, mọi hoạt động từ sinh hoạt, sản xuất đến tín ngưỡng, tang ma, cưới hỏi đều thực hiện tập thể. Người Jrai tin rằng, con người tồn tại được là nhờ cộng đồng bảo vệ, nuôi nấng, che chở. Tục góp gạo chính là sợi dây gắn kết từng hộ, từng người vào cộng đồng.
“Ai sống mà không góp gạo, không chia sẻ thì chẳng khác gì người đã chết, mất vía làng. Vì thế, người Jrai vẫn giữ tục này như một cách giữ mình còn là người làng, còn là người Jrai”-ông Hương bộc bạch.
Ngày nay, nhiều người trẻ vẫn tiếp nối và phát huy truyền thống này. Chị Siu H’Tưới (làng Mook Trêl, xã Ia Dom, huyện Đức Cơ) tâm sự: “Mỗi khi các gia đình có tiệc vui, chuyện buồn, bên cạnh việc quây quần bên nhau để nấu ăn, đánh cồng chiêng thì bà con còn góp gạo, mì tôm, tiền bạc. Đây là nét văn hóa thể hiện sự gắn kết trong cộng đồng, vô cùng ý nghĩa nên mình và nhiều bạn trẻ khác trong làng vẫn duy trì truyền thống này”.
Cũng theo chị H’Tưới, góp gạo là biểu tượng đẹp về tinh thần sẻ chia, đoàn kết và đùm bọc. Giữ được tập tục góp gạo, người Jrai không chỉ giữ được bản sắc của mình mà còn truyền lại cho hậu thế một bài học về lòng nhân đạo và sức mạnh cộng đồng.