Đứa con của ma rừng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Truyện viết dựa trên câu chuyện có thật của cô gái Y Byen nhận nuôi 2 đứa trẻ suýt phải chôn theo mẹ theo hủ tục của người Ba Na “dọ tơm amí”. Khi người mẹ sinh con chẳng may qua đời, đứa trẻ phải chôn theo mẹ, nếu không hồn người mẹ không được siêu thoát sẽ biến thành ma rừng quấy phá dân làng.

Đắk Đoa mấy tháng rồi không có mưa. Con suối ăm ắp nước gần nhà tôi bây giờ trơ ra những phiến đá bỏng rát nằm dưới nắng. Những mảng cỏ chết cháy đỏ quạch y như mồi rơm đợi lửa. Những cơn gió nóng hầm hập thổi qua buôn làm lớp đất đỏ bazan đặc quánh, bám đầy trên phiến lá ở những cái cây ven đường. Tôi không thích mùa khô ở Tây nguyên chút nào. Nương rẫy khô hạn không trỉa được bắp, không trồng được cây. Ông bà ngoại thở dài. Mẹ Y Byen phải vắng nhà thường xuyên để đi hát kiếm tiền nuôi tôi và em Y Sơn.

Tôi còn nhớ, hồi mới cao bằng nửa cây bắp đã bị mọi người trong buôn gọi mình là đứa con của ma rừng. Người trong buôn gặp tôi thường lấy nón che mặt, có người già còn hốt hoảng chạy ngược lại hướng tôi đang đi. Không có bạn, tôi thường theo chân ông mỗi lần lên rẫy hay ngồi bậc thềm nhìn bà dệt vải. Bàn tay bà chai sần vậy mà những thớ vải sặc sỡ y như những cánh bướm bay lên. Những tấm vải thổ cẩm dệt xong, bà ngoắc lên chiếc sào tre, y như một đàn bướm đang rập rờn.


 

 


Người trong buôn cũng ít nói chuyện, qua lại với nhà ông bà ngoại vì sợ cái xui bám lấy. Họ sợ đứa con của ma rừng sẽ khiến heo bò chết, khiến hạt bắp trỉa xuống không mọc được cây, khiến người ta bệnh mà chết. Ông ngoại thường ngồi buồn nhìn về ánh lửa bập bùng, tiếng chiêng rộn ràng của buôn làng cúng mừng lúa mới.

Mỗi lần theo ông ngoại lên rừng, tôi thường đứng lặng im nhìn đại ngàn xanh thẳm. Gió thổi vi vút, lá rừng xào xạc. Tôi rúm người lại khi nghĩ đến cảnh suýt chút nữa mình trở thành một hồn ma bơ vơ lạc lõng giữa rừng. Mỗi bận vô tình nghe ai đó nhắc đến từ “dọ - tơm - amí” hay chôn theo mẹ là đêm ấy tôi lại gặp ác mộng. Những ánh mắt vô cảm, ái ngại nhìn đứa trẻ con khóc nghèn nghẹt bên cạnh xác mẹ. Tôi khóc khản cổ, lạc giọng nhưng không ai nghe thấy, chỉ có rừng già âm u, huyễn hoặc và đầy bóng tối đang muốn nuốt chửng tôi. Trán tôi toát mồ hôi, hoảng loạn. Lúc giật mình giữa cơn ác mộng, tôi an lòng khi thấy mẹ Y Byen nằm bên cạnh. Thấy bóng ông trầm tư ngồi bên bếp lửa đỏ rực.

Nghe nhiều người nói, khi bế tôi về nhà lúc đó mẹ Y Byen mới 15 tuổi, còn nhỏ hơn tuổi tôi bây giờ. Căn nhà lá của ông cũ kỹ, mỗi khi mùa mưa kéo tới là dột tứ bề. Cơm cũng chẳng mấy khi đủ no. Tôi nhớ hồi mình còn nhỏ, đứng chơi trong sân thấy mẹ cõng về những gùi măng, gùi củi nặng trĩu. Tôi biết mẹ phải làm nhiều thứ. Khi thì cạo mủ cao su, chăn bò, khi thì hái cà phê để lấy tiền nuôi tôi. Tây nguyên mùa nắng khô khốc, mùa mưa thối đất, mùa nào mẹ cũng chật vật với miếng cơm manh áo. Ngoại kể, có lần địu tôi trước ngực đi cấy lúa thuê, mẹ cột thêm chiếc ô che nắng, gió thổi mạnh hất hai mẹ con xuống ruộng. Nhà ngoại chỉ có con bò là gia tài, cũng bán đi để lấy tiền mua sữa.

Khi tôi hơn mười tuổi, mẹ bế về một đứa bé đỏ hỏn còn dây rốn đang khóc nghèn nghẹt. Mắt mẹ đỏ hoe, mẹ nói với bà:

- Nó nằm ngoài nghĩa địa, người ta định chôn sống theo mẹ. Mình nuôi nó được không?

Bà ngoại đưa tay đón lấy em, rưng rưng gật đầu. Mẹ đặt tên cho em là Y Sơn. Nhìn em bé nhỏ xíu nằm trong cái áo cũ của mẹ mà tôi như thấy chính mình. Tôi cũng nằm khóc bên xác mẹ như Y Sơn. Vô tình mẹ Y Byen đi ngang, mẹ cởi áo quấn lấy tôi và mang tôi về nhà. Mẹ thường chỉ tay về phía xa ấy và bảo nhà cha tôi và anh em ruột của tôi ở đấy. Chỉ chừng 100 cây số nhưng nghe thăm thẳm như đường lên trời. Mẹ bảo ai cũng có nguồn cội, mai mốt con lớn nếu muốn hãy quay trở về với họ.

Y Sơn ốm yếu, bệnh suốt ngày. Mẹ Y Byen ròng rã ôm em đi viện. Những ngày tháng đó, đêm đêm bóng mẹ in thành hình dài trên vách tường, dường như cả đêm mẹ không ngủ. Y Sơn cứ khóc nghèn nghẹt. Mẹ dỗ em bằng tiếng hát khe khẽ. Trong giấc ngủ thỉnh thoảng tôi giật mình tỉnh giấc, thấy mẹ lặng lẽ ngồi bế em giữa màn đêm thinh lặng.

Tôi nhớ miếng cơm mừng lúa mới nóng hôi hổi mẹ đút vào miệng mình và miệng Y Sơn. Nhớ vị thơm lừng của con cá niêng ông ngoại bắt ngoài suối. Vị ngọt của con tôm bỏ trong ống lồ ô nấu với rau dớn bà ngoại gắp vào chén mình. Mắt họ long lanh khi nhìn chúng tôi ăn ngon lành. Lúc nào cũng vậy, miếng ngon trong nhà đều dành nuôi lớn tôi và Y Sơn. Ông ngoại kể, có lần nhà chỉ còn chén cơm duy nhất, mẹ để dành đút cho tôi vậy mà tôi vô tình tè trúng. Mẹ Y Byen phải rửa cơm bằng nước lạnh rồi ăn.

Mẹ Y Byen xinh đẹp như đóa hoa rừng, lúc nào mẹ cũng cười. Tôi hay theo mẹ ra suối, vừa giặt đồ mẹ vừa hát. Tiếng mẹ trong chen lẫn tiếng suối róc rách. Thỉnh thoảng tôi cũng ngồi dưới sân khấu xem mẹ biểu diễn, váy thổ cẩm rực rỡ, mẹ hát hay như con chim Kơtia của đại ngàn. Mọi người say mê xem mẹ hát. Chẳng ai biết cuộc đời mẹ đã nhọc nhằn, khổ cực vì những đứa con chẳng máu mủ ruột rà.

 

*

*      *


Tôi thường cầm bàn tay mẹ so với tay mình. Mẹ hơn ba mươi mà bàn tay đầy vết chai sần, da mẹ sạm đi vì phơi nắng. Mùa nóng khô khốc, cỏ cây héo rũ mà mẹ còn bận đi làm thuê, cạo mủ cao su. Những cây cao su sừng sững, giơ những nhánh lên trời, bóng mẹ thì nhỏ bé. Mẹ cũng hay vắng nhà để đi hát. Ngoài hát trong đoàn, mẹ còn đi hát đám cưới. Hễ có người gọi dẫu xa xôi mẹ cũng chẳng nề hà. Tiền kiếm được, mẹ để mua thức ăn phụ ông bà, đóng tiền học cho tôi và Y Sơn.

Mùa khô đã kéo dài đến tháng thứ sáu. Ông ngoại tóc bạc ngồi buồn thiu dưới bậc thang bảo nay muốn đi hái rau rừng, ra suối bắt con cá niêng cũng khó. Đâu đó đã có cảnh cháy rừng. Mùa này rừng khác gì mồi lửa, chỉ cần ai đó sơ sểnh vứt một mẩu thuốc hút dở cũng biến thành mồi lửa thiêu rừng. Buổi tối, gió thổi vào nhà vẫn cứ như vừa đi ngang một đám cháy vậy. Mẹ Y Byen thì vắng nhà suốt. Ông ngoại bảo đợt này mẹ phải làm thêm việc trên thị trấn.

Cả buôn mong mưa. Mưa xuống để tra hạt bắp, để trồng cái cây, để con bò con dê có cái mà uống. Những người đàn bà địu con ngồi trước cửa buồn rười rượi. Những người đàn ông không vui khi ngồi bên ché rượu cần sóng sánh men say. Tôi mong mẹ Y Byen như cả buôn này mong mưa vậy.

Đêm ấy, tôi nghe gió rừng thổi mạnh. Chiếc sào tre ngoại phơi vải đập vào vách lá. Gió thổi u u nghe như giọng của kẻ nào thiểu não. Và rồi, mái nhà lắc rắc. Một hạt, hai hạt và vô số hạt rơi xuống sân. Mùi đất oi nồng xộc vào nhà. Tôi nhổm dậy. Thấy ông bà cũng ngồi dậy nghe ngóng. Và rõ ràng là mưa, mưa thật rồi. Tôi và Y Sơn vui sướng, hò hét. Trong buôn, hình như ai đó gõ chiêng ăn mừng mưa về.

Vì chúng tôi luôn biết, khi cơn mưa đầu tiên rơi xuống, mẹ Y Byen sẽ về nhà!


 

 

Theo Nguyễn Thị Như Hiền (TP.HCM/TNO)

Có thể bạn quan tâm

Tháng năm nhớ Người

Tháng năm nhớ Người

(GLO)- Bài thơ “Tháng năm nhớ Người” của Lenguyen khắc họa hình ảnh Bác Hồ qua ký ức làng quê, tình mẹ, giọt lệ, hương sen và ánh nắng Nam Đàn,... như lời tri ân sâu lắng dành cho vị Cha già kính yêu của dân tộc suốt đời vì dân, vì nước.

Âm sắc Tây Nguyên trên quê Bác

Âm sắc Tây Nguyên trên quê Bác

(GLO)- Từ ngày 16 đến 20-5, gần 40 ca sĩ, diễn viên, nghệ nhân Gia Lai đã tham gia 2 sự kiện vô cùng ý nghĩa tại tỉnh Nghệ An. Đó là hội diễn nghệ thuật quần chúng “Tiếng hát Làng Sen” và triển lãm “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người” năm 2025.

Khai mạc triển lãm ảnh “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Bình Định - Sắc màu hội tụ”

Khai mạc triển lãm ảnh “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Bình Định - Sắc màu hội tụ”

Nhân kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2023); 47 năm Ngày Quốc tế Bảo tàng (18/5/1978 - 18/5/2025), sáng 12-5, Bảo tàng tỉnh Bình Định phối hợp Bảo tàng Quang Trung khai mạc triển lãm ảnh chủ đề “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Bình Định - Sắc màu hội tụ”.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

(GLO)- "Gia Lai một hai ba" của Nguyễn Thanh Mừng dẫn người đọc qua những nẻo đường dốc đèo, qua tiếng thác reo và chiêng cồng, để gặp lại khí phách người xưa. Mỗi hình ảnh, mỗi nhịp thơ là một lát cắt vừa hoang sơ, vừa tự hào về bản sắc không thể phai mờ của đại ngàn Tây Nguyên.

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

(GLO)- Trong bài thơ "Nghe con đọc thơ về Tổ quốc", tác giả Lê Thành Văn để mạch cảm xúc tuôn chảy tự nhiên: từ sự rưng rưng khi nhớ về chiến tranh đến niềm tin lặng lẽ gửi gắm vào thế hệ mai sau. Bài thơ như một nhịp cầu nối liền quá khứ đau thương và hiện tại bình yên.

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

(GLO)- Giữa những cơn gió xào xạc của núi rừng Tây Nguyên bỏng rát, bài thơ “Biên cương mùa gió” của Lê Vi Thủy như thổi vào lòng người nỗi xúc động lặng thầm. Từ ánh mắt trẻ thơ đến no ấm buôn làng và những giọt mồ hôi người lính, tất cả hòa quyện trong khát vọng yên bình nơi địa đầu Tổ quốc.

Tổ quốc trong tim

Thơ Lenguyen: Tổ quốc trong tim

(GLO)- Bài thơ “Tổ quốc trong tim” của tác giả Lenguyen là lời tri ân sâu sắc với cha ông đã hy sinh vì độc lập dân tộc. Từ Cửu Long đến Trường Sơn, từ Điện Biên đến Sài Gòn, một Việt Nam bất khuất vươn lên giữa máu và hoa, rạng ngời sắc cờ Tổ quốc.

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

(GLO)- Trong nhịp sống hiện đại hối hả, bài thơ "Lòng quê" của tác giả Đào An Duyên là tiếng vọng thầm lặng mà day dứt. Người xa quê, dù ở đâu chăng nữa vẫn mang trong tim nỗi nhớ cội nguồn. Qua hình ảnh nước xuôi nước ngược, bài thơ gợi về sự gắn bó thiêng liêng giữa con người và quê hương.

Người nặng lòng với dân ca Tày

Người nặng lòng với dân ca Tày

(GLO)-Hơn 30 năm kể từ ngày rời quê hương Cao Bằng vào Gia Lai lập nghiệp, ông Mã Văn Chức (SN 1961, tổ 3, thị trấn Phú Thiện) vẫn nặng lòng với văn hóa dân tộc Tày. Hơn 100 bài hát đã được ông sáng tác theo làn điệu dân ca Tày với mong muốn “giữ lửa” cho âm nhạc dân gian.