Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng: Góp phần quản lý, bảo vệ rừng tốt hơn

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đã và đang có những chuyển biến tích cực, nhận thức các chủ rừng, hộ nhận khoántrong công tác quản lý rừng, bảo vệ và phát triển rừngtừng bước được nâng cao. Đặc biệt, chính sách này đã góp phần tạo nguồn thu nhập ổn định cho người dân sống gần rừng, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Dân có thu nhập, rừng được bảo vệ
 

Người dân vui mừng nhận kết quả lao động trong việc tham gia giữ rừng. Ảnh: Minh Nguyễn
Người dân vui mừng nhận kết quả lao động trong việc tham gia giữ rừng. Ảnh: Minh Nguyễn

Từ khi chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) ra đời, các chủ rừng là tổ chức nhà nước được Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tăng cường giao khoán, mở rộng diện tích khoán bảo vệ rừng.

Năm 2012, diện tích giao khoán của các Ban Quản lý (BQL) rừng chỉ gần 37,4 ngàn ha thì đến năm 2015 con số này đã là hơn 70,5 ngàn ha, tăng 33,1 ngàn ha; số hộ nhận khoáncũng tăng lên 2.023 hộ. Tương tự, các công ty lâm nghiệp tăng 6,3 ngàn ha diện tích khoán so với diện tích đã khoán trước đây và tăng 788 hộ nhận khoán.

Như vậy, sau 4 năm thực hiện chính sách chi trả DVMTR thì diện tích giao khoán, mở rộng phát triển rừng được nâng lên 69,8 ngàn ha, số hộ nhận khoán và nhóm hộ, cộng đồng dân cư tăng 2.881 hộ so với trước đây.

Theo ông Võ Văn Hạnh-Giám đốc Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng, trên địa bàn tỉnh hiện có 38 chủ rừng là tổ chức nhà nước (19 BQL rừng, Vườn Quốc gia, Khu Bảo tồn Thiên nhiên; 11 Công ty Lâm nghiệp) với diện tích rừng cung ứng dịch vụ là 332.001 ha; 87 UBND xã có diện tích rừng cung ứng là 160.410 ha và 7 chủ rừng là cộng đồng dân cư thôn với diện tích 3.202 ha.

 

Nhận tiền từ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. Ảnh: Minh Nguyễn
Nhận tiền từ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. Ảnh: Minh Nguyễn

Hiện có 26 cơ sở sử dụng DVMTR gồm 40 nhà máy thủy điện với công suất 2.124 MW, nguồn thu bình quân 65 tỷ đồng/năm.Tổng thu tiền DVMTR từ năm 2011-2014 là 209,2 tỷ đồng. Đến thời điểm hiện tại, đã chi đủ 100% cho chủ rừng tiền DVMTR đã thu các năm 2011-2014 với số tiền 170,5 tỷ đồng với đơn giá chi trả cho hộ nhận khoán thấp nhất là 200.000 đồng/ha, cao nhất 342.000 đồng/ha.

Đây là nguồn tài chính quan trọng kết hợp với nguồn vốn ngân sách góp phần đảm bảo nhu cầu công tác quản lý, bảo vệ rừng. Đặc biệt, đã tháo gỡ khó khăn về tài chính đối với các công ty lâm nghiệp không có chỉ tiêu khai thác gỗ; UBND xã có tiền triển khai công tác bảo vệ rừng; các hộ nhận khoán bảo vệ rừng có thu nhập cải thiện đời sống.

Các chủ rừng là hộ gia đình, cộng đồng dân cư thôn và hộ nhận khoán bảo vệ rừng cũng được hưởng toàn bộ tiền DVMTR được chi trả. Trên địa bàn tỉnh có 7 cộng đồng dân cư thôn là chủ rừng, Mang Yang (3 làng), thị xã Ayun Pa và huyện Phú Thiện (4 làng) với tổng kinh phí chi trả 4 năm qua là 676 triệu đồng.

Chủ rừng là tổ chức nhà nước được chi trả cao nhất trên 20 tỷ đồng (Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh). Từ nguồn tiền này, các chủ rừng đã chủ động chi trả cho các hộ nhận khoán bảo vệ rừng và các nhiệm vụ chi thiết yếu cho công tác quản lý bảo vệ rừng.

Những tồn tại, hạn chế

 

Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng kiểm tra tại Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh. Ảnh: Minh Nguyễn
Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng kiểm tra tại Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh. Ảnh: Minh Nguyễn

Cũng theo ông Hạnh, hiện nay diện tích khoán bảo vệ rừng của các chủ rừng là tổ chức nhà nước chiếm khoảng 23,8%. Trong đó, các BQL đã khoán 33,1%, các công ty lâm nghiệp khoán 6,2%, UBND cấp xã hợp đồng bảo vệ rừng với nhóm hộ, cộng đồng dân cư chiếm khoản 18,9% so với diện tích đang quản lý.

Tuy vậy, tốc độ và quy mô giao khoán, hợp đồng bảo vệ rừng như hiện nay chưa đạt yêu cầu mà chính sách đề ra cũng như chỉ đạo của tỉnh trong việc tăng cường công tác quản lý bảo vệ rừng, tạo thu nhập cho người dân sống gần rừng, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Bên cạnh đó, mức tính chi phí trên 1 ha/năm của các BQL rừng gấp 1,7 lần so với mức chi phí của các công ty lâm nghiệp trong khi chức năng, nhiệm vụ giống nhau chỉ khác nhau về loại hình tổ chức.

Một bất cập khác là diện tích rừng giao cho cấp xã tương đối lớn trong khi lực lượng cấp xã không phải chủ rừng và chưa đáp ứng tốt về yêu cầu, nhiệm vụ trong công tác quản lý bảo vệ rừng. Cụ thể, 2 xã có diện tích rừng trên 10.000 ha; 8 xã có có diện tích từ 5.000 ha đến dưới 10.000 ha và 10 xã có diện tích dưới 5.000 ha. Do vậy, UBND tỉnh cần có giải pháp giảm diện tích rừng giao cho xã quản lý (dưới 3.000ha là phù hợp), thu hồi diện tích còn lại giao cho chủ rừng là các tổ chức nhà nước hoặc thành lập mới Ban Quản lý Rừng mới để quản lý.

Ngoài ra, vẫn còn tồn tại nữa hiện nay là tỷ lệ phân chia tiền DVMTR thuộc lưu vực liên tỉnh còn chưa hợp lý trong thực tế đối với các thủy điện bậc thang và chưa tương đồng với chính sách thuế tài nguyên nước. Đơn cửtrên một lưu vực sông chính tiền DVMTR được phân chia: cao nhất 22%, thấp nhất 15,6%, bình quân 18,5% trong khi tỷ lệ phân chia thuế tài nguyên nước: cao nhất 50%, thấp nhất 30%, bình quân 39%.

Giám đốc Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng cho biết thêm, Gia Lai hiện có 90 xã quản lý khoảng 190.000 ha diện tích rừng trong lưu vực chi trả, trong khi chính sách xác định UBND các xã không phải là chủ rừng và thực hiện hỗ trợ trong chi trả là chưa thật hợp lý.

Mặt khác công tác quản lý, sử dụng tiền chi trả theo đặc thù loại hình của xã là một cấp ngân sách cũng chưa được hướng dẫn cụ thể. Các công ty lâm nghiệp không có chỉ tiêu khai thác, tiền DVMTR được chi trả chủ yếu bố trí cho hoạt động của đơn vị, nên công tác khoán quản lý và bảo vệ rừng chậm được triển khai…

Minh Nguyễn

Có thể bạn quan tâm

Đại diện xã Chư Drăng và Hạt Kiểm lâm huyện Krông Pa kiểm tra các diện tích đất rừng giao cho người dân tại xã Chư Drăng. Ảnh: Lê Nam

Krông Pa tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng

(GLO)- Qua 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/HU ngày 5-11-2021 của Huyện ủy Krông Pa về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng về công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn huyện đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Nhiều hội viên nông hội mong muốn được tiếp cận nguồn vốn vay để phát triển sản xuất, kinh doanh. Ảnh: H.D

Tăng khả năng tiếp cận vốn cho nông hội

(GLO)- Mô hình nông hội trên địa bàn tỉnh Gia Lai đã góp phần giúp nông dân chuyển dần từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, nâng giá trị các sản phẩm.

Những triệu phú trồng mắc ca ở Sơn Lang

Những triệu phú trồng mắc ca ở Sơn Lang

(GLO)- Mắc ca là loại cây “kén” khí hậu nhưng khi trồng ở xã Sơn Lang (huyện Kbang, tỉnh Gia Lai) lại cho năng suất và chất lượng hạt vượt trội so với vùng đất khác và mang lại giá trị kinh tế cao, giúp nhiều nông dân địa phương trở thành triệu phú.

Thành phố Kon Tum vào vụ hoa Tết

Thành phố Kon Tum vào vụ hoa Tết

Còn hơn 2 tháng nữa mới tới Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025, nhưng thời điểm này, người dân trồng hoa tại thành phố Kon Tum đang tất bật gieo trồng, chăm sóc cây hoa để phục vụ thị trường, với hy vọng sẽ có một vụ hoa Tết thành công.

Gia Lai được cấp mới 15 mã số vùng trồng xuất khẩu

Gia Lai được cấp mới 15 mã số vùng trồng xuất khẩu

(GLO)- Theo Sở Nông nghiệp và PTNT, năm 2024, toàn tỉnh có 15 mã số vùng trồng xuất khẩu được cấp mới với diện tích 332,09 ha xuất khẩu trên thị trường Trung Quốc và 4 mã số cơ sở đóng gói nông sản phục vụ xuất khẩu với tổng công suất 155 tấn quả tươi/ngày.

Cà phê là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh Gia Lai. Ảnh: Hà Duy

Liên kết sản xuất phục vụ xuất khẩu

(GLO)- Việc liên kết sản xuất đang được các doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) trên địa bàn tỉnh Gia Lai chú trọng nhằm tạo nguồn nông sản chất lượng phục vụ xuất khẩu. Nhờ đó, nông sản của tỉnh đã thâm nhập thị trường của gần 50 quốc gia trên thế giới.