Bên 9 miệng Rồng - Kỳ 3: Đổi khác Ba Lai

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Mở chiếc điện thoại, anh Trần Anh Minh, Phó Chủ tịch UBND xã Thạnh Trị (Bình Đại, Bến Tre) vào ngay phần camera giám sát cống ngăn mặn Ba Lai. 'Việc vận hành, quản lý cống Ba Lai rất chặt chẽ, vì là công trình rất quan trọng đối với đời sống xã hội của cả khu vực', anh Minh nói, đồng thời bảo, từ khi cống đi vào hoạt động hơn 20 năm trước, đời sống người dân đã thay đổi nhiều.

Ngăn mặn, trữ ngọt

Giữa tháng 5, những cánh cửa sắt cống ngăn mặn Ba Lai cắm sâu xuống lòng sông Ba Lai, ngăn hai nửa mặn, ngọt. Phía xa xa, vài con thuyền nhỏ giăng câu mạn cửa sông giáp biển. Phía trong cống, nơi hướng vào đất liền, vài con tàu lớn nằm im ắng nghỉ ngơi. Mấy công nhân đang hàn xì, sửa chữa vài chi tiết nhỏ trên thân cống.

Ông Nguyễn Văn Thừa mưu sinh trên dòng Ba Lai. Ảnh: Hòa Hội

Ông Nguyễn Văn Thừa mưu sinh trên dòng Ba Lai. Ảnh: Hòa Hội

Anh Trần Anh Minh, Phó Chủ tịch UBND xã Thạnh Trị (Bình Đại) chia sẻ, việc đóng mở cống ngăn mặn Ba Lai không phải chuyện đơn giản. “Mở hay đóng cống sẽ liên quan đến hoạt động kinh doanh, sản xuất, đời sống của cả một vùng”, anh Minh nói, đồng thời cho biết, thời gian này, trong giai đoạn đang có xâm nhập mặn, việc giám sát đóng, mở cống, hay những yếu tố ảnh hưởng đến an toàn cống đập Ba Lai đều rất được chú ý thông qua kiểm tra thực địa cũng như giám sát qua hệ thống trực tuyến.

Tính đến nay, cống đập Ba Lai đã hơn 20 tuổi, vẫn bền bỉ hoạt động, ngăn mặn, trữ ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp cho cả vùng rộng lớn của tỉnh Bến Tre. Năm 2002, với 70 tỷ đồng - số tiền khổng lồ thời điểm đó, trên đập Ba Lai dài gần nửa cây số, một cống gồm 10 cửa, khẩu độ 84 mét hoàn thành, vận hành bằng van tự động hai chiều, làm nhiệm vụ đảm bảo cung ứng nước ngọt cho hơn 115 nghìn ha đất canh tác của các huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Châu Thành và ngay cả thành phố Bến Tre. Một nhiệm vụ còn quan trọng hơn, việc ngọt hóa dòng Ba Lai còn cung cấp nước ngọt cho người dân các huyện Châu Thành, Giồng Trôm và thành phố Bến Tre, đồng thời kết hợp phát triển giao thông thủy, bộ và cải tạo môi trường sinh thái cả vùng.

Công trình cống đập ngăn mặn Ba Lai

Công trình cống đập ngăn mặn Ba Lai

“Cuộc sống thay đổi nhiều”, ông Lê Văn Bạc, nguyên Chủ tịch UBND xã Thạnh Trị (Bình Đại, Bến Tre) nói trong lúc pha ấm trà, lấy kẹo dừa - sản vật đặc trưng của Bến Tre mời phóng viên Tiền Phong. Nhà ở cách cống Ba Lai một đoạn ngắn, bản thân ông Bạc hiểu rõ nhất những thay đổi khi cống đập Ba Lai đi vào hoạt động. “Bên nước ngọt thì trồng cây ăn quả dễ hơn, canh tác thuận tiện hơn, không còn lo xâm nhập mặn như ngày xưa. Cây trái cũng dễ sống, đa dạng hơn”, ông Bạc nói. Còn bên ngoài cống đập Ba Lai, nước mặn vẫn còn, những người dân thuộc vùng này vẫn tiếp tục canh tác, nuôi trồng thủy, hải sản, hoặc tiếp tục đánh bắt thủy, hải sản ngoài cửa biển, hoặc vươn khơi xa, đánh bắt lớn… “Hồi đó, công trường có đến hàng trăm, hàng nghìn người, chủ yếu là người ngoài Bắc vào, làm việc không kể ngày đêm. Nhiều lúc, đêm hôm mà cả khu vực sáng trưng như ban ngày. Nhiều hàng quán cũng mọc lên. Một số công nhân sau đó còn ở lại, lập gia đình, sinh sống tại địa phương”, ông Bạc nói. Thời điểm đó, ông Bạc bảo, chính quyền cũng họp dân, vận động sự đồng thuận. Dân nghe có nước ngọt, cuộc sống thay đổi theo hướng tốt lên, đều đồng thuận cả.

Băn khoăn “số phận con rồng”

Anh Trần Anh Minh, Phó Chủ tịch UBND xã Thạnh Trị (Bình Đại) theo dõi camera giám sát cống ngăn mặn Ba Lai. Ảnh: Hòa Hội

Anh Trần Anh Minh, Phó Chủ tịch UBND xã Thạnh Trị (Bình Đại) theo dõi camera giám sát cống ngăn mặn Ba Lai. Ảnh: Hòa Hội

Ba Lai là một trong 9 nhánh sông Cửu Long trên đất liền Việt Nam. Sông nằm trọn trong địa phận tỉnh Bến Tre, dài 55 km, chảy từ ranh giới các xã Tân Phú và Phú Đức, huyện Châu Thành ra đến Biển Đông tại cửa Ba Lai (Bình Đại). Ông Bạc kể, trước khi có cống Ba Lai, vùng này 6 tháng mặn, 6 tháng ngọt. Người dân trong vùng chủ yếu sản xuất nông nghiệp với cây lúa, cây dừa nhưng sản lượng bình quân đầu người thấp vì xâm nhập mặn. Nguồn nước ngọt dùng sinh hoạt lại khan hiếm trầm trọng, nhất là vào mùa khô. Hàng năm, người dân phải đổi lấy nước ngọt từ thượng nguồn sông Ba Lai chở về và từ nơi khác, thậm chí từ tỉnh lân cận. Người dân cũng tích trữ nước mưa, nhưng ngặt nỗi, lúc hết mà trời chưa mưa thì lại phải… đi xin.

“Lúc đó cuộc sống khó khăn. Mỗi năm 1 vụ lúa, làm lúa xong tháng 11 âm lịch là mặn tràn vào luôn đến tháng 5 âm lịch năm sau”, ông Bạc nói. Còn giờ, có cống Ba Lai, bên trong đập đã xây dựng nhiều nhà máy nước sạch phục vụ nước máy đến tận nhà. Phó Chủ tịch xã Trần Anh Minh bảo, trên địa bàn xã Thạnh Trị có 2 nhà máy nước là Trung Thành và N.I.D cung cấp nước sinh hoạt cho hàng ngàn hộ dân trên địa bàn huyện. Ngoài ra, trên sông Ba Lai còn có nhiều nhà máy nước như nhà máy nước Thới Lai, nhà máy Long Định, nhà máy nước Tân Mỹ, nhà máy nước Ba Lai phục vụ sinh hoạt và nước nuôi trồng thủy sản cho người dân các huyện Bình Đại, Ba Tri, Giồng Trôm...

Nhưng cống đập Ba Lai cũng mang tới những nỗi niềm với không ít người dân. Chiều giữa tháng 5/2023, ánh nắng gay gắt vừa hạ nhiệt là lúc ông Nguyễn Văn Thừa (Năm Thừa, 67 tuổi) cùng con trai 10 tuổi vừa kết thúc buổi giăng lưới trên sông, vội chạy về bến tại cống đập Ba Lai bán cho thương lái. “Hôm nay trúng mánh, cha con tôi đi từ sáng sớm đến chiều được 30 kg cá mề gà, bán được trên 600.000 đồng”, ông Năm Thừa tươi cười nói. Hai cha con ông ăn, ngủ, mưu sinh bằng nghề câu lưới trên chiếc ghe khoảng hơn 1 tấn ở sông Ba Lai.

Ông Năm Thừa quê xã Thới Lai (huyện Bình Đại) sống với nghề câu lưới mấy chục năm. Ông nắm quy luật thời tiết, cũng như vào mùa nào sẽ có cá thích hợp để sử dụng ngư cụ đánh bắt. Có khi ông đánh bắt bên ngoài cống, khi cống mở cửa thì vào bên trong cống giăng câu lưới, nhưng cá giảm rất nhiều so với vài năm trước. Ông Năm Thừa kể, thời điểm cá nhiều vào những năm 1980 - 2000, chưa xây cống đập cá nhiều vô số kể, không chỉ dân vùng này mà ghe từ nhiều nơi khác cũng kéo đến giăng câu lưới trên con sông này. Tuy nhiên, giờ khai thác ngày càng nhiều, chưa kể đánh bắt bằng điện khiến nguồn lợi thủy, hải sản ngày càng cạn kiệt.

Ba Lai là một trong 9 nhánh sông Cửu Long trên đất liền Việt Nam. Sông chảy trọn trong địa phận tỉnh Bến Tre, dài 55 km, chảy từ ranh giới các xã Tân Phú và Phú Đức, huyện Châu Thành ra đến Biển Đông tại cửa Ba Lai (Bình Đại).

Từ khu cống đập Ba Lai, dọc theo đường ven sông, phóng viên Tiền Phong tìm về khu vực nơi sông Ba Lai đổ ra biển trên địa bàn xã Thới Thuận. Qua 1/4 thế kỷ, dưới tác động của cống đập Ba Lai, dòng chảy sông ngày càng nhỏ. Quan sát trên bản đồ Google Map có thể thấy một màu xanh bạt ngàn của những rừng bần, rừng đước bao quanh khu vực sát cửa sông. Nhiều cánh quạt điện gió cũng bắt đầu mọc dày đặc nơi cửa biển, xen lẫn với những trụ sở công ty, xưởng sản xuất... Ven một con kênh nhỏ dẫn ra cửa sông Ba Lai, đình thần Thới Thuận - nơi thờ cá Ông đang được người dân nâng cấp, sửa chữa. Họ bảo, từ khi cống đập Ba Lai được xây dựng, mép nước cứ lùi xa, lùi xa dần… Cá tôm trên sông cũng ngày một ít đi. Người dân dần chuyển sang làm phụ hồ, công nhân, ít người còn bám biển. Họ lo ngại một ngày, khu vực cửa Ba Lai sẽ mất…

(Còn nữa)

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

null