Vua Khải Định với việc đặt lễ 'quốc khánh' của triều Nguyễn

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Cách đây hơn 100 năm, vua Khải Định đã quy định lấy ngày vua Gia Long lên ngôi (2 tháng 5 âm lịch) là ngày đại lễ của đất nước, với tên gọi lễ Khánh niệm Hưng quốc.

 

Các triều đại phong kiến thường lấy ngày sinh của vua làm ngày đại lễ, tương tự như quốc khánh, như vua Lê Thái Tông lấy ngày sinh là Kế Thiên thánh tiết, sau đổi là Vạn Thọ thánh tiết. Đến nay, Vương quốc Anh vẫn đang lấy ngày sinh của Nữ hoàng Elisabeth II là ngày quốc khánh.

Ở nước ta, đến đầu thế kỷ 20, triều đình nhà Nguyễn cũng lấy ngày sinh nhật của vua làm ngày đại lễ, được tổ chức với nghi thức long trọng nhất cùng với các lễ Tiết Nguyên đán, Tiết Đoan dương (ngày 5 tháng 5 âm lịch).

Sau khi vua Khải Định lên ngôi năm 1916, quần thần đã xin lấy ngày sinh của vua (ngày 1 tháng 9) làm tiết Vạn Thọ khánh tiết, lấy đó làm lệ thường hàng năm.

Tuy nhiên từ năm Khải Định thứ 3 (1918), triều Nguyễn bắt đầu tổ chức lễ kỷ niệm ngày chính thức thành lập triều đại, tương tự như lễ quốc khánh của các nước hiện nay.

Sách Đồng Khánh - Khải Định chính yếu (Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, Nguyễn Văn Nguyên dịch, NXB Thời đại, 2009), phần Khải Định chính yếu, sơ tập, quyển 1, chương Chính thống, viết: “Tháng 2 năm 1918, chuẩn lấy ngày 2 tháng 5 làm ngày lễ Kỷ niệm”.

Theo đó, vua Khải Định ban dụ rằng: “Các nước văn minh bên châu Âu rất coi trọng những ngày lễ Kỷ niệm, như nước Đại Pháp lấy ngày thành lập nền Cộng hòa làm ngày lễ Kỷ niệm Chính Trung (tức Quốc khánh Pháp 14/7). Nước ta hồi năm ngoái cũng đã bàn định lấy ngày trẫm lên ngôi (ngày 17 tháng 4) làm ngày lễ Kỷ niệm.... Nhưng với triều ta thì năm Gia Long nguyên niên là năm khởi đầu tạo dựng thành công sau bao gian nan vất vả, lẽ nào nỡ bỏ qua để đi kỷ niệm ngày nào khác".

"Vì thế, lấy ngày mùng 2 tháng 5, là ngày Thế tổ Cao Hoàng đế lên ngôi làm lễ Kỷ niệm. Tới ngày đó, trẫm sẽ thân hành dẫn Tôn nhơn phủ cùng đình thần văn võ ra Thế miếu kính cẩn hành lễ. Lễ xong, trẫm về cung thiết triều nghi bình thường tại điện Cần Chính để nhận chúc mừng. Các cơ quan hữu ti phải soạn định ra nghi thức chi tiết để lấy đó thành lệ. Vào ngày hôm đó, tất cả quan lại, binh lính và dân chúng đều chuẩn cho được nghỉ ngơi vui chơi để cùng chia sẻ niềm vui”.


 

 Nghi lễ quốc khánh bắt đầu được tổ chức từ thời vua Khải Định, năm 1918. Ảnh chụp từ phim tài liệu của Henri Richard.
Nghi lễ quốc khánh bắt đầu được tổ chức từ thời vua Khải Định, năm 1918. Ảnh chụp từ phim tài liệu của Henri Richard.



Năm sau (1919), vua Khải Định lại cho đổi tên lễ Kỷ niệm thành lễ Khánh niệm Hưng quốc.

Sách Khải Định chính yếu chép dụ của vua ghi rằng: “Nước ta mới định đặt ra một ngày lễ Kỷ niệm, đó là ngày đầu tiên Thế tổ Cao Hoàng đế triều ta khai sáng ra sự nghiệp lớn lao để lại cho muôn đời sau. Trẫm xét thấy thần dân khắp trong nước được tin ấy ai cũng hân hoan mừng rỡ tuân hành, thậm chí có nơi còn bỏ qua cả ngày tết Đoan dương để vui mừng tổ chức lễ Kỷ niệm này”.

"Nếu chỉ dùng hai chữ "Kỷ niệm" không thôi thì e lẫn lộn và chưa hợp với nguyện vọng của nhân dân. Để ghi lại ngày vui mừng và thể hiện lòng ghi tạc không quên, chi bằng đặt cho một cái tên gọi đẹp để để lưu truyền mãi mãi. Vì vậy hai chữ "Kỷ niệm" sẽ phỏng theo cách gọi lễ Kỷ niệm Chính Trung mà tôn kính gọi là lễ Khánh niệm Hưng quốc. Truyền thông lục cho khắp trong ngoài đều biết để tuân hành".

Năm 1921, quần thần tâu rằng nhân dịp này, đối với các công thần có công lao trung hưng (giúp vua Gia Long đến lúc lên ngôi) và đã lập được đền thờ phụng thì xin ban lễ tế cho mỗi vị một mâm, vua y cho. Đồng thời vua Khải Định dặn ghi nhớ công lao Anh Duệ Hoàng Thái tử (tức Hoàng tử Cảnh) thân phải đi làm con tin, công lao to lớn, nên truyền sắm sửa lễ để tế ông. Năm này, triều Nguyễn cũng quy định soạn nhạc chương dùng trong ngày lễ Khánh niệm Hưng quốc.

Năm 1922, kỷ niệm 120 năm vua Gia Long lên ngôi, vua Khải Định cho rằng với mốc tròn 2 hoa giáp, nên yêu cầu cử hành điển lễ chào mừng thật long trọng. Vua truyền cho Bộ Lễ trích ngân khoản gấp đôi theo lệ thường để tổ chức, trong đó có khoản điện tế Anh Duệ Hoàng Thái tử và các công thần khai quốc.

Trong cuốn truyện Tuấn, chàng trai nước Việt, nhà văn Nguyễn Vỹ miêu tả lại lễ Quốc khánh đầu tiên tổ chức ở Quy Nhơn:

“Dần dần một tháng sau học trò cả trường mới biết rằng theo lệnh triều đình và tòa Khâm sứ Trung kỳ, lễ Tết mồng 5 tháng 5 âm lịch năm ấy sẽ bị bãi bỏ và thay thế bằng Lễ Quốc khánh ngày 2 tháng 5 An Nam, là ngày vua Gia Long đã toàn thắng Tây Sơn, lên ngôi Hoàng đế và sáng lập triều Nguyễn. Ðó là Lễ Quốc khánh đầu tiên của nước An Nam và được cử hành rất long trọng ở hai xứ Trung kỳ và Bắc kỳ”.

Mặc dù đã có lễ Khánh niệm Hưng quốc, nhưng sách báo sau này cho biết, trong thời vua Khải Định trị vì, ông đã tổ chức Lễ Tứ tuần đại khánh để mừng sinh nhật tuổi 40 của mình với quy mô to lớn và tốn kém bậc nhất, diễn ra trong suốt tháng 8 âm lịch năm 1925.


 

 Lễ Khánh niệm Hưng quốc được tổ chức sang thời vua Bảo Đại. Ảnh chụp từ phim tài liệu của Henri Richard.
Lễ Khánh niệm Hưng quốc được tổ chức sang thời vua Bảo Đại. Ảnh chụp từ phim tài liệu của Henri Richard.



Chúng ta có thể đọc để biết diễn biến một buổi lễ Khánh niệm Hưng quốc diễn ra năm 1935, dưới thời vua Bảo Đại, do Báo Tràng An, số ra ngày 4/6/1935, tường thuật lại như sau:

“Lễ Hưng quốc Khánh niệm đã cử hành ngày Chủ nhật (2/6, tức 2/5 âm lịch), cũng long trọng như mọi năm.

Sáng sớm hôm đó, Hoàng đế hành lễ tại Thế miếu. Tại điện Cần Chánh có lễ Khánh hạ. 9 giờ sáng có lễ cầu vong ở nhà thờ Phủ Cam, 11 giờ có lễ cầu độ âm hồn ở chùa Thiên Mụ.

Trước dinh phủ Thừa có phát tiền cho những người nghèo khổ (30$). Ở nhà thương cũng vậy (30$).

Các tù nhân ở Hộ Thành, phủ Thừa và đồn Mang Cá được ăn uống sung sướng hơn ngày thường. Những cuộc vui có: Thi thuyền, bắt vịt, bắt heo, đánh đu, leo cột mỡ, thi đèn, đốt cây bông, rước đèn, chớp bóng giữa trời.

Hoàng đế, quan Khâm sứ và các quan chức hai Chánh phủ có dự cuộc thi đèn tối hôm ấy”.

Lễ Khánh niệm Hưng quốc tiếp tục diễn ra dưới thời vua Bảo Đại cho đến khi Cách mạng tháng 8 nổ ra, chính quyền về tay nhân dân, để rồi dẫn đến Lễ Độc lập ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình lịch sử, khai sinh ra nước Việt Nam DCCH.

 Lê Tiên Long (zing)

Có thể bạn quan tâm

Lễ báo hiếu: Thơm thảo tấm lòng con cái

Lễ báo hiếu, thơm thảo tấm lòng con cái

(GLO)- Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, người Bahnar luôn nhắc nhau: “Phải kính trọng cha mẹ như mặt trăng, kính trọng ông bà như mặt trời”. Khi đã trưởng thành, con cái đều nghĩ đến việc tổ chức lễ báo hiếu cha mẹ (teh nhung ăn kră).

Nâng cao chất lượng các danh hiệu văn hóa ở cơ sở

Nâng cao chất lượng các danh hiệu văn hóa ở cơ sở

(GLO)- UBND tỉnh Gia Lai ban hành QĐ số 60/2024/QĐ-UBND quy định chi tiết tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Thôn, tổ dân phố văn hóa”, “Xã, phường, thị trấn tiêu biểu” để hướng dẫn thực hiện, bảo đảm phù hợp với đặc thù văn hóa và tình hình kinh tế-xã hội của địa phương.

Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia vừa họp, bỏ phiếu thống nhất đề xuất Thủ tướng Chính phủ công nhận Quần thể di tích Tây Sơn Thượng đạo là di tích quốc gia đặc biệt. Ảnh: Ngọc Minh

Chuyện làm hồ sơ di tích Tây Sơn Thượng đạo

(GLO)- Cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, những người làm công tác di sản văn hóa (như cách gọi ngày nay) của tỉnh Gia Lai-Kon Tum bắt tay vào việc thu thập thông tin để làm hồ sơ di tích đề nghị xếp hạng, trong đó có hồ sơ di tích Tây Sơn Thượng đạo.

Chùa Bửu Minh (huyện Chư Păh)

Vọng tiếng chuông ngân

(GLO)- Trên địa bàn tỉnh Gia Lai có nhiều ngôi chùa bắt đầu bằng chữ Bửu như chùa Bửu Minh (huyện Chư Păh), Bửu Thắng, Bửu Nghiêm, Bửu Hải (TP. Pleiku). Riêng cái tên Bửu Tịnh được đặt cho 2 ngôi chùa, 1 ở Ayun Pa, 1 ở Krông Pa. Nhà tôi ở gần chùa Bửu Tịnh (xã Phú Cần, huyện Krông Pa).

Nét đẹp tặng chữ đầu xuân

Nét đẹp tặng chữ đầu xuân

(GLO)- Mỗi dịp Tết đến Xuân về, người dân Việt lại náo nức với những phong tục truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Trong đó, nét đẹp tặng chữ đầu xuân đã trở thành một truyền thống hiếu học của dân tộc và mang ý nghĩa cầu chúc may mắn, tài lộc, hạnh phúc cho năm mới.

Một dòng huyền tích

Một dòng huyền tích

Mỗi lần đi qua cầu Đuống, tôi bất giác nhìn về phía hạ lưu, trong đầu ngân lên mấy câu thơ của Hoàng Cầm “Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh, nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”.

Theo dấu sử thi

Theo dấu sử thi

Tôi về xã Ea Tul (huyện Cư M’gar, Đắk Lắk) vào một dịp ngành văn hóa Đắk Lắk phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức lớp truyền dạy hát kể sử thi (khan) cho lớp trẻ.