Ước được ôm một cây chè cổ thụ và giấc mơ 'đại sứ chè' khắp thế giới

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Tôi đã mấy lần lên Hà Giang, nhưng chưa lần nào được tận mắt ngắm một cây chè cổ thụ shan tuyết có độ tuổi mấy trăm năm.

Tôi kính ngưỡng những cây chè cổ thụ như thế, vì đó là những báu vật đang sống. Không có bảo tàng nào kỳ diệu như bảo tàng thiên nhiên, và không có bảo vật nào tuyệt vời hơn những cây xanh đang sống.

Mà đó lại là những cây chè.

Với tôi, cây chè vùng cao miền Bắc là một cái duyên, còn tôi thì có nợ với nó.

Nợ đây cũng không hề khó trả, chỉ là câu chuyện ngày còn trẻ học đại học sơ tán tận Đại Từ (Thái Nguyên), chúng tôi đã ở giữa một vùng đồi chè bạt ngàn. Mỗi nhà dân ở đó đều có những vườn chè của nhà mình. Và tôi, cùng mấy đứa bạn học của mình, thường xuyên "đột kích" vào vườn chè bà Vân vào lúc… 3 giờ sáng, để hái trộm chè về uống.

Chúng tôi không hái nhiều, chỉ vừa nấu một nồi chè xanh đủ uống cho tới sáng để bàn chuyện… văn thơ. Nhưng nửa đêm mò vào vườn chè nhà dân, không ăn trộm chè thì làm gì, chẳng lẽ để… nghiên cứu chè! Chúng tôi lại học khoa Ngữ văn, biết gì về cây chè mà… nghiên cứu.

Cây chè cổ thụ 2 người ôm ở Hồ Thầu, Hoàng Su Phì, Hà Giang

Cây chè cổ thụ 2 người ôm ở Hồ Thầu, Hoàng Su Phì, Hà Giang

Nhưng cũng nhờ những năm học sống cùng cây chè đó, chúng tôi đều biết uống trà, biết phân biệt trà ngon trà dở, biết giá từng bơ (lon sữa bò) chè ngoài chợ. Nhiều anh em trong chúng tôi do ở nhà dân, còn biết cả kỹ thuật chế biến trà, nhờ bà con chỉ bảo. Cũng do thế, hơn nửa thế kỷ qua, mấy anh em bạn học chúng tôi ngày ấy đều giỏi… uống trà. Và món "trà đạo Việt Nam" cực giản dị là món chúng tôi vẫn thưởng thức hằng ngày, kể cả những năm tôi ở chiến trường Nam bộ.

Cây chè, không chỉ là báu vật của Việt Nam, nó còn là báu vật của thế giới.

Nhớ hồi mùa thu năm 2005, vợ chồng tôi sang Pháp chơi với bạn bè, chúng tôi đã mang "tới gần tháp Eiffel" 2 kg trà đặc biệt được sao bằng tay tại Suối Giàng (Yên Bái), là một trong mấy trung tâm của cây chè cổ thụ shan tuyết Việt Nam. Phải công nhận, trà Suối Giàng Yên Bái ngon tuyệt đỉnh luôn.

2 kg trà chúng tôi mang qua Paris, vừa biếu anh em bạn bè, vừa đãi bà con Việt kiều tham dự buổi nói chuyện của tôi về cuốn "Nhật ký Đặng Thùy Trâm" tại quán Foyer Viet Nam. Ai uống trà Suối Giàng hôm ấy cũng khen, trà ngon quá thơm quá, lại nhấm nháp với kẹo vừng kẹo lạc quê nhà Việt Nam, thật hết ý.

Đồi chè hữu cơ ở vùng chè La Bằng, Thái Nguyên

Đồi chè hữu cơ ở vùng chè La Bằng, Thái Nguyên

Cây chè, tốt từ lá chè già tới đọt chè non (còn gọi là tôm). Lá già thì phơi khô uống chè khô, hay để tươi uống chè xanh, còn đọt nõn tôm (đọt non) thì như câu thiệu "một tôm hai lá", bà con hái chè chuyên nghiệp cứ "một - hai" mà hái, đó là nguyên liệu làm nên chè loại 1.

Bây giờ, ở ngay Tân Cương - thủ phủ chè Thái Nguyên - người ta còn chắt chiu tới mức chọn toàn đọt nõn (tôm), không lấy hai lá non, chỉ lấy nõn. Nguyên liệu ấy làm nên loại trà đặc biệt, gọi là trà đinh nõn, bán tới 2.500.000 đồng/kg. Đúng là trà hảo hạng.

Tôi may mắn được uống loại trà này, công nhận là ngon thật. Nhưng rồi chợt nhớ lại, thời sơ tán ở xã Vạn Thọ, huyện Đại Từ ấy, chúng tôi đã bao nhiêu lần được uống trà của bà con Đại Từ, bán trong những ống bơ, giá đắt nhất chỉ 1 đồng/bơ, mà ngon nào kém trà "đinh nõn" Tân Cương bây giờ.

Lý do, khá đơn giản, vì chè (trà) hồi ấy hoàn toàn được chế biến bằng tay, từ khâu vò trà, khâu sao trà trên chảo gang với lửa than, khâu "đánh mốc" để trà có màu "tuyết", tất cả các công đoạn ấy đều được thực hiện bằng tay, và tốn rất nhiều thời gian.

Người dân ở Bó Đướt, Vị Xuyên, Hà Giang thu hái chè shan tuyết cổ thụ

Người dân ở Bó Đướt, Vị Xuyên, Hà Giang thu hái chè shan tuyết cổ thụ

Sự chiu chắt, tỉ mỉ, gạn lọc như thế đã tạo nên thành phẩm là những "bơ" trà, dù từ "một tôm hai lá" hay "một tôm bốn lá" đều cho chất lượng trà rất thơm ngon. Hồi ấy, không ai chỉ dùng trà "độc tôm", trà "một tôm hai lá" đã ngon số zách rồi, cần gì hơn nữa.

Chỉ có điều, ở Thái Nguyên, tôi chưa được thấy những cây chè cổ thụ. Những đồi chè vườn chè ở đây trồng một loại chè được cắt xén tròn vành vạnh, đều tăm tắp, trông xa xa giống những chiếc mũ bảo hiểm úp, cứ như người ta bây giờ chăm cây cảnh. Cả đồi chè mà mỗi cây chè đều giống nhau như vậy, nhìn rất thích mắt.

Lý do vì sao người trồng chè cắt xén những cây chè như vậy, thì cũng dễ hiểu: để chè đồng loạt ra búp nõn lá non mỗi mùa xuân tới. Đó là mùa hái chè, thu hoạch được những gùi chè ngon nhất, thơm nhất. Từ đó làm nên những "bơ" trà hảo hạng.

Dù bán ngoài chợ chỉ tầm một đồng/bơ, nhưng tiền ngân hàng Hà Nội hồi ấy có giá lắm. Học bổng đồng loạt của sinh viên chúng tôi là 17,5 đồng/tháng, chỉ đủ đóng tiền ăn cơm tập thể. Nếu muốn có tiền mua trà uống, chúng tôi hoặc phải xin tiền nhà, hoặc phải lao động kiếm thêm.

Rừng chè cổ thụ ở Túng Sán, Hoàng Su Phì, Hà Giang

Rừng chè cổ thụ ở Túng Sán, Hoàng Su Phì, Hà Giang

Lao động ở vùng rừng núi chủ yếu là đi rừng lấy nứa, lấy gỗ, lấy củi. Mỗi bó nứa to nặng và nứa bánh tẻ ngon lành, giá tầm 3 - 4 đồng. Hồi ấy, chúng tôi hay nhận những 'đơn đặt hàng" từ các thầy giáo của mình, chúng tôi đi rừng lấy nứa về bán cho các thầy làm chuồng gà hay làm nhà bếp. Thầy trò rất thương nhau, nhưng "giá cả phân minh, nghĩa tình trọn vẹn", và chúng tôi vui mừng nhận những đồng tiền trong sạch từ lao động cực nhọc của mình.

Tiền ấy, có một phần quan trọng, để giành mua chè uống. Hồi đó, chỉ gọi đơn giản là "chè", chứ không gọi "trà". Cái tên 'chè" có vẻ dân dã, bình dân, hợp với người trồng chè, và hợp cả với chúng tôi, những sinh viên nghèo.

Như thế, nhờ đi học sơ tán ở vùng chè, tôi đã quen uống chè tới nay đã hơn nửa thế kỷ. Và gia đình tôi thường xuyên uống chè xanh tới nay vừa tròn 30 năm.

Thu hoạch búp chè vụ xuân ở xóm Hồng Thái 2, Tân Cương, Thái Nguyên

Thu hoạch búp chè vụ xuân ở xóm Hồng Thái 2, Tân Cương, Thái Nguyên

Ban đầu, cũng vì nghĩ tới bà con người dân tộc ở huyện miền núi Minh Long (Quảng Ngãi), nơi cũng được coi là thủ phủ chè Quảng Ngãi, tôi đã thường xuyên mua chè tươi của bà con mang về thị xã bán, riết thành quen, thành… nghiện chè xanh.

Uống chè xanh rất tốt cho sức khỏe, nên sau 15 năm tôi uống chè xanh, ra chợ thấy giá chè xanh "được" hơn hẳn. Bà con hái chè núi và bán chè tươi có thu nhập dần tốt lên, lượng người uống chè xanh trong phố cũng tăng lên theo năm tháng. Bây giờ, tại TP.Quảng Ngãi, đã có những quán cà phê "xịn" phục vụ nước uống là chè xanh rất ngon, một tiến bộ đáng ghi nhận của ngành giải khát.

Kể mãi về cây chè và uống chè, nhưng mãi tới bây giờ tôi vẫn chưa có hân hạnh được gặp mặt một cây chè cổ thụ nào, dù dã quen với những đồi chè cây tròn như "mũ bảo hiểm úp". Lại được biết, bây giờ, những chuyên gia về chè trên thế giới đánh giá rất cao những rừng chè cổ thụ shan tuyết của Việt Nam. Họ đã đến tận nơi, đã lấy nhiều mẫu để nghiên cứu, đã có kế hoạch giới thiệu rộng rãi "đặc sản chè" Việt Nam ra thế giới.

Đó là những rừng chè cổ thụ tự nhiên, người dân chỉ khai thác chứ không "thêm" phân hóa học hay hóa chất. Còn bao nhiêu đồi chè trồng trong cả nước, đang rất cần một chiến lược "chè sạch" toàn diện, để sản phẩm chè Việt có thể đường hoàng ra thế giới, tới với mọi người thưởng thức trà trên hành tinh này. Chiến lược chè sạch ấy phải được thực hiện đồng bộ, để quy trình trồng chè, thu hoạch và chế biến chè trở lại "như ngày xưa", nghĩa là sạch tự nguồn.

Chiến lược ấy không dễ thực hiện, nhưng không còn con đường nào khác, nếu muốn sản phẩm chè Việt Nam vượt qua những hàng rào kỹ thuật ngày càng khắt khe tại những nước phát triển.

Còn những cây chè cổ thụ di sản, đó là những biểu tượng, những hình ảnh thương hiệu của cây chè Việt Nam. Những "đấng bậc cổ thụ" ấy sẽ là những "đại sứ chè" đưa cây chè Việt ra thế giới.

Với những đồi chè mênh mông của Việt Nam, đó sẽ là nơi cung cấp một khối lượng rất lớn sản phẩn chè đạt chất lượng xuất khẩu cho Việt Nam.

Ước ao ấy có khi còn lớn hơn ao ước được nhìn tận mắt một cây chè shan tuyết cổ thụ.

Có thể bạn quan tâm

Đi biển mùa xuân

Đi biển mùa xuân

Làng biển rộn ràng trong ngày hội Nghinh Ông. Lễ hội đã trở thành Tết biển, một nét đẹp văn hóa của người dân nơi đầu sóng ngọn gió Cần Giờ. Sau 3 ngày chơi lễ, những con tàu đánh cá lại vươn mình ra khơi, bám biển ngày đêm, đi suốt mùa xuân... 

Tôi là du kích Ba Tơ...

Tôi là du kích Ba Tơ...

“Cả đời cống hiến cho cách mạng, trải qua nhiều chức vụ, nhưng điều tôi tự hào nhất là mình từng là đội viên Đội Du kích Ba Tơ”. Đó là tâm sự của Đại tá Thân Hoạt, năm nay 98 tuổi đời, 80 tuổi Đảng, người con của quê hương Quảng Ngãi.

Người của bách khoa

Người của bách khoa

Thật ra sáu mươi không chỉ là mốc quy ước để có tuổi hưu trí mà còn là tuổi của “nhi nhĩ thuận” (tai đã nghe đủ chuyện đời nên giờ là lúc biết lẽ thuận, nghịch), GS Trần Văn Nam là người nhi nhĩ thuận đã mấy năm rồi.

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

(GLO)- Hơn 30 năm cầm cương, ông Phan Xuân Định (SN 1966, thôn Đồng Bằng, xã Biển Hồ, TP. Pleiku) vẫn luôn nhớ về những ngày tháng rong ruổi cùng tiếng vó ngựa trên cao nguyên. Lão xà ích ấy vẫn âm thầm nuôi dưỡng đàn ngựa để thỏa chí tang bồng và giữ cho phố núi Pleiku nét riêng độc đáo.

Như núi, như rừng

Như núi, như rừng

Trong dòng chảy lịch sử của Kon Tum, qua biết bao thăng trầm, mỗi vùng đất nơi đây đều gắn với những chiến công oai hùng, với những con người mà cuộc đời của họ đã trở thành huyền thoại. Một trong số đó là ông Sô Lây Tăng- người vừa đi vào cõi vĩnh hằng.

Tết rừng, mĩ tục của người Mông

Tết rừng, mĩ tục của người Mông

Đối với người Mông xã Nà Hẩu, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, lễ cúng rừng (Tết rừng) có từ khi tổ tiên ngàn đời di cư đến đây lập làng, lập bản và trở thành sắc thái văn hóa, tín ngưỡng dân gian độc đáo riêng của người Mông nơi đây.