Tục “nối dây” của người Jrai xưa

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News
(GLO)- Không riêng người Jrai, nhiều dân tộc ít người ở khu vực Trường Sơn-Tây Nguyên, rộng ra cả trên thế giới, những tộc người theo chế độ mẫu hệ cũng có lệ tục này. Theo nhà dân tộc học Jacques Dournes, tục “nối dây” mục đích là nhằm tăng cường các mối liên kết trong dòng họ, bảo tồn gia đình, giảm thiểu rủi ro và sự phân tán tài sản trong bối cảnh xã hội mà cuộc sống con người luôn hướng tới các mối quan hệ liên minh để bảo tồn cuộc sống của mình.

“Nối dây”, tiếng Jrai là “nuei bơnai”, có nghĩa là “sự thay thế”. Khi trong gia đình có một người không may chết vợ hoặc chết chồng thì gia đình và dòng họ phải có trách nhiệm tìm một người thích hợp, có thể là đang góa vợ hoặc góa chồng hoặc chưa vợ, chưa chồng để thế vào vị trí của người đã chết. Điều này người ta xem như là một lẽ tự nhiên.

“Khi cột nhà gãy thì phải thay, sợi dây đứt thì phải nối lại (cũng như) khi một người chết thì phải có một người khác thay, để nòi giống được giữ gìn, nếu không sẽ tan tác gia đình, nòi giống sẽ như dòng suối không có nước”. Bởi lẽ đó, những người “nối dây” đều thực hiện lệ tục một cách tự giác. Trong trường hợp người đàn bà góa không chấp nhận người được “nối dây”, người ta sẽ đập chiếc coong (do người chồng quá cố trao trước đây), sau đó người vợ sẽ chịu phạt khá nặng bằng trâu bò, chiêng, ché cho dòng họ chồng.

Lễ cưới truyền thống của người Jrai được UBND TP. Pleiku phục dựng. Ảnh: Đ.T

Lễ cưới truyền thống của người Jrai được UBND TP. Pleiku phục dựng. Ảnh: Đ.T

Tuy nhiên, nếu trong dòng họ chồng không còn ai để “nối dây” thì bà được hoàn toàn tự do đi tìm người khác. Với người đàn ông, nếu không chấp nhận người “nối dây” do gia đình vợ đưa ra, anh ta sẽ đi khỏi nhà vợ mà không được mang theo bất cứ của cải gì, kể cả những đứa con. Chỉ trong trường hợp gia đình và dòng họ vợ không còn ai để nối dây, người đàn ông góa vợ mới hoàn toàn được tự do.

Tuy được xem là một sự tất yếu để bảo tồn gia đình, dòng giống và của cải, nhưng tục “nối dây” vẫn phải tuân thủ những nguyên tắc không được bước qua, đó là: Nếu vợ chết, người chồng có quyền lấy em gái vợ nhưng không được lấy chị của vợ. Anh ta cũng được quyền lấy vợ em trai nếu em trai chết nhưng không được lấy vợ anh trai của mình. Nếu chồng chết, người vợ có quyền lấy anh trai chồng nhưng không được phép lấy em chồng (tuy nhiên ở một số vùng người ta vẫn cho phép). Ngoài ra, những người chết vợ, chết chồng không được lấy bố, mẹ của vợ/chồng; không được lấy anh, chị em, con rể của bố, mẹ vợ/chồng; con trai, con gái của anh/chị người đã chết. Các ông bà thông gia không được lấy nhau. Tục lệ không quy định thời gian bao lâu cho các cuộc tình “nối dây” nhưng thường là sau 1 năm với điều kiện người quá cố phải được bỏ mả và chia của, nếu không sẽ bị phạt nặng vì “mộ còn chưa sập, nhà mồ ta chưa mọt, mày đã bước qua người ta”.

Trước đây, gần như đến một ngôi làng người Jrai nào, ta cũng gặp những cuộc hôn nhân bởi tục lệ “nối dây”. Có những cuộc hôn nhân chênh lệch tuổi tác rất lớn, có khi tới 20-30 tuổi. Chẳng hạn như ở xã Bình Giáo (huyện Chư Prông), ông Kpă Thu phải “nối dây” với người thím hơn mình 20 tuổi; hay ông Kpă Men được “nối dây” với em gái vợ nhỏ hơn mình 30 tuổi. Chính vì điều này mà lệ tục “nối dây” bị lên án là bóp nghẹt tự do hôn nhân; giết chết tình yêu của bao chàng trai, cô gái trong chiếc lồng tăm tối của luật tục. Thực ra, trong một số trường hợp, những cuộc hôn nhân của lệ tục “nối dây” vẫn đảm bảo sự hạnh phúc và tính nhân văn của nó, đó là khi sự chênh lệch tuổi tác ở một mức độ hợp lý và hai bên tình nguyện đến với nhau.

“Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ ấp vú dì”. Vận câu tục ngữ của người Kinh, không ít trường hợp nhờ mối quan hệ họ hàng, ruột thịt mà những đứa trẻ dù cha mẹ qua đời vẫn được chăm sóc, nuôi dưỡng chu đáo; ít khi xảy ra tình cảnh phân biệt đối xử dì ghẻ con chồng hay cha dượng con vợ. Tuy nhiên nhìn chung, những mối tình “nối dây” hạnh phúc vẫn là số ít so với những mối tình bất hạnh. Ngày nay, trong xu thế của cuộc sống đang diễn tiến ngày càng văn minh, hiện đại, những mối tình theo lệ tục “nối dây” xưa càng ngày càng ít đi, đặc biệt là rất hiếm thấy trong lớp trẻ. Điều này cũng là sự tất yếu bởi hôn nhân “nối dây” thực ra là sự phản ánh mối quan hệ kinh tế-xã hội của một thời kỳ lịch sử.

Có thể bạn quan tâm

Người giữ nghề dệt thổ cẩm ở Ia Rsươm

Người giữ nghề dệt thổ cẩm ở Ia Rsươm

(GLO)- Không chỉ dệt thổ cẩm giỏi, chị Rah Lan H’Nghí (SN 1988, buôn Toát, xã Ia Rsươm, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai) còn nhiệt tình chỉ dạy cho chị em trong buôn để góp phần bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc.

Bảo tồn bản sắc văn hóa ở TP. Pleiku dưới góc nhìn mới - Kỳ cuối: Giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa

Bảo tồn bản sắc văn hóa ở TP. Pleiku dưới góc nhìn mới - Kỳ cuối: Giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa

(GLO)- Chính quyền TP. Pleiku đã dành nguồn lực đầu tư để Plei Ốp thành điểm đến của du khách trải nghiệm văn hóa truyền thống và bản sắc dân tộc Jrai thông qua phục dựng một số lễ hội cộng đồng như: cúng giọt nước, pơ thi…

Rơ Châm Nguyên nặng tình với dân ca Jrai

Rơ Châm Nguyên nặng tình với dân ca Jrai

(GLO)-Nhiều năm qua, người dân làng Kte (xã Ia Phí, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai) luôn dành sự yêu mến và kính trọng đối với bà Rơ Châm Nguyên bởi bà biết hát và lưu giữ nhiều bài dân ca của dân tộc Jrai.

Bảo tồn và phát huy di sản

Bảo tồn và phát huy di sản

Câu chuyện biệt thự “nhà lầu ông Phủ” (ven sông Đồng Nai, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) xôn xao dư luận những ngày qua như một tín hiệu vừa mừng vừa đáng suy ngẫm. Mừng khi cộng đồng ngày càng quan tâm thiết thực đến các giá trị di sản văn hóa.

Cây vũ trụ của nền văn hóa Đông Sơn trên trống đồng

Cây vũ trụ của nền văn hóa Đông Sơn trên trống đồng

Trước nay, các nhà nghiên cứu đều cho rằng mỹ thuật Đông Sơn bị trống vắng yếu tố thực vật. Thế nhưng với sự phát hiện hoa văn vòng tròn hay vòng tròn đồng tâm có chấm giữa là hoa cúc được cách điệu, đã cho thấy yếu tố thực vật chưa bao giờ vắng bóng trong trang trí ở trống đồng.
Nghệ nhân 80 tuổi giữ nghề làm đèn ông sao

Nghệ nhân 80 tuổi giữ nghề làm đèn ông sao

Khung tre được uốn nắn tỉ mỉ, bọc bên ngoài là tấm giấy đầy màu sắc rực rỡ, nghệ nhân Trần Thanh Tùng (80 tuổi, thôn Thu Xà, xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi) làm thành những chiếc lồng đèn trung thu truyền thống.