Truyền thuyết chùa Thiên Mụ - thủ thuật chính trị của chúa Nguyễn Hoàng?

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Sông Hương bắt nguồn từ vùng núi phía tây nam huyện Phú Lộc (Thừa Thiên - Huế), đến gần đồi Hà Khê, dòng sông mở rộng ôm theo chân đồi, uốn tròn qua phía Nguyệt Biều, tạo ra vùng sông nước mênh mông. Chùa Thiên Mụ nằm trên đồi Hà Khê ấy.

Tương truyền, từ xa xưa trên đồi Hà Khê đã có một ngôi chùa. Đến năm 1601, chúa Tiên Nguyễn Hoàng cho xây lại chùa mới, đặt tên chùa là Thiên Mụ. Đến năm 1665, chúa Nguyễn Phúc Tần lệnh cho tu sửa chùa.

Chúa Nguyễn Phúc Chu (trị vị từ 1691 - 1725) là người rất sùng đạo Phật nên năm 1714, chùa Thiên Mụ được chúa cho tu sửa (thực chất là làm mới lại) thành một ngôi chùa to lớn hơn nhiều so với ngôi chùa chúa Tiên Nguyễn Hoàng dựng lên năm 1601. Việc sửa chữa, xây dựng lại chùa lần này được ghi lại trên tấm bia đá lớn hiện còn tại chùa. Lần tu sửa và làm mới này đã tạo nên một ngôi chùa lớn tuyệt đẹp.

 

 Toàn cảnh chùa Thiên Mụ. Ảnh: T.L
Toàn cảnh chùa Thiên Mụ. Ảnh: T.L


Từ đó về sau, đến khi chúa Nguyễn Phúc Thuần bôn tẩu vào Nam, chùa không được tu sửa thêm nữa. Thời gian quân Trịnh chiếm đóng Phú Xuân, rồi thời nhà Tây Sơn đóng đô tại đây, chủ yếu lo việc binh đao, chùa càng xuống cấp, hoang phế. Khi vua Gia Long lên ngôi (1802), ngôi chùa cổ đã gần như thành hoang phế. Năm 1815, nhà vua cho dựng lại một lần nữa ngôi chùa Thiên Mụ, trên đúng các nền cũ từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu năm 1714.

Năm 1844, vua Thiệu Trị đã cho xây tháp Phước Duyên và sửa chữa chùa Thiên Mụ rất nhiều. Thực ra ý tưởng xây tháp là của vua Minh Mạng - một vị vua đã cho xây dựng rất nhiều công trình kiến trúc vừa vĩ đại, vừa mỹ thuật trong thời kỳ ông trị vì. Tuy nhiên, ông chưa kịp thực hiện việc xây tháp Phước Duyên thì đã mất.


 

 Bia “Ngự kiến Thiên Mụ tự” của chúa Nguyễn Phúc Chu. Ảnh: T.L
Bia “Ngự kiến Thiên Mụ tự” của chúa Nguyễn Phúc Chu. Ảnh: T.L


Năm 1862, vua Tự Đức cho rằng đã lâu vua không có con là do trời phạt, nên ra lệnh cấm, không được phạm vào mấy chữ thiên, địa. Từ năm ấy, chùa được gọi là Linh Mụ. Tuy nhiên sau một thời gian, người ta lại gọi chùa là Thiên Mụ, và từ đó đến nay chùa có hai cái tên vậy.

Lạm bàn truyền thuyết về chùa Thiên Mụ

Từ xưa đến nay sử sách luôn lưu truyền một truyền thuyết liên quan đến chùa Thiên Mụ. Huyền thoại ấy bắt đầu xuất hiện trong các thư tịch từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Năm 1695 - 1696, nhà sư Thích Đại Sán người Trung Hoa được chúa Nguyễn Phúc Chu mời sang thăm Đàng Trong, sau đó trong tác phẩm Hải ngoại kỷ sự có đoạn ông viết về huyền thoại chùa Thiên Mụ:

“…Trích tiên chuyện cũ truyền Thiên Mụ

Hồn mộng mơ màng trở lại đây”

Về nội dung truyền thuyết, các sử sách triều Nguyễn cơ bản đều ghi lại tương tự nhau. Sách Đại Nam nhất thống chí (NXB Thuận Hóa, 2006) chép: “… Chúa thượng (Nguyễn Hoàng - NV) đến xã Hà Khê (nay là xã An Ninh), thấy đồng bằng nổi đất cao như hình con rồng ngoảnh đầu trông lại, phía trước trông ra sống cái, phía sau liền với hồ, phong cảnh đẹp tốt, nhân hỏi người địa phương, họ nói gò này rất thiêng. Tương truyền ngày trước có người trông thấy một bà già mặc áo đỏ quần xanh ngồi trên gò nói: 'Phải có chân chúa đến dựng chùa ở đây, mà thu góp khí thiêng để giữ vững long mạch'. Nói xong thì biến mất, nên gọi là núi Thiên Mụ. Chúa thượng bèn dựng chùa gọi là chùa Thiên Mụ”.

 

Tháp Phước Duyên, chùa Thiên Mụ. Ảnh: T.L
Tháp Phước Duyên, chùa Thiên Mụ. Ảnh: T.L


Tuy nhiên năm 1555, từ trước khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa (1558), Dương Văn An khi viết Ô châu cận lục đã ghi nhận có một ngôi chùa trên đồi Hà Khê. Ngôi chùa ấy có từ bao giờ, do ai dựng, sách không hề nói tới, cũng như không hề có một lời nào về truyền thuyết bà lão áo đỏ. “(Chùa Thiên Lão) ở phía nam xã Giang Đạm, huyện Kim Trà. Trên là đỉnh núi, dưới là dòng sông (nơi tưởng như đã) vượt ba ngàn (kiếp) trần thế và chỉ còn cách trời trong gang tấc. Khách tản bộ đi lên, chẳng biết mình tự phát lòng lành, tâm tục sạch không. Thực đúng là cảnh trí của một nơi tu hành vậy” (trích bản dịch năm 2009 của Nguyễn Khắc Thuần).

Vấn đề là tại sao chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558 khi ông mới 33 tuổi, nhưng đến 43 năm sau ông mới cho dựng lại chùa Thiên Mụ? Đương nhiên Nguyễn Hoàng chắc chắn đã đi ngang dọc khắp đất Thuận Hóa từ khi mới vào trấn thủ để dò xét thế đất, và ông có thể đã sớm nhìn ra vị trí đắc địa là Hà Khê. Nhưng mãi năm 1601 Nguyễn Hoàng quyết định cho dựng lại chùa vì lúc đó tiềm lực của ông đã đủ mạnh, sau 43 năm làm chủ đất Thuận Hóa.

Vì cuốn sách cổ nhất nói về ngôi chùa này không ghi một lời nào về huyền thoại bà lão trên trời xuống, dù trong sách lại nói rất nhiều đến các thần thoại về các đền chùa ở Hóa châu thời đó, nên rất có thể huyền thoại Thiên Mụ do chúa Nguyễn Hoàng hoặc các mưu sĩ của ông nghĩ ra một cách có chủ đích, bởi việc dựng lên một huyền thoại có lợi cho mình là một thủ thuật chính trị nhiều nhà sáng nghiệp xưa nay vẫn sử dụng để chiếm lợi thế trong việc dựng nghiệp.

Huyền thoại chùa Thiên Mụ vẫn là huyền thoại, nhưng Nguyễn Hoàng thì quả là một vị “chân chúa” như trong huyền thoại nói đến, khi ông đã có những công lao vô cùng to lớn trong việc khai khẩn, mở đất vào phương Nam sau này.

Theo Nam Hoa (TNO)

Có thể bạn quan tâm

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

(GLO)- Đây là số cuối cùng của chuyên mục “Gương mặt thơ” trên báo Gia Lai Cuối tuần do tôi phụ trách.Chuyên mục đã đi được hơn 2 năm (từ tháng 10-2022), tới nay đã giới thiệu tác phẩm của hơn 100 nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn cả nước.

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

(GLO)- Rời quê vào thôn Đà Bắc (xã Ia Lâu, huyện Chư Prông) lập nghiệp đã hơn 30 năm, nhưng cộng đồng người Mường vẫn luôn duy trì và nỗ lực bảo tồn văn hóa cồng chiêng của dân tộc. Với họ, “giữ lửa” cồng chiêng chính là cách làm thiết thực nhất tạo sự gắn kết bền chặt với quê hương, nguồn cội.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản có tiềm năng khai thác kinh tế du lịch. Ảnh: Minh Châu

Những ngày làm hồ sơ “Không gian văn hóa cồng chiêng”

(GLO)- Ngày 23-3-2004, Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch) ban hành quyết định về việc xây dựng hồ sơ ứng cử quốc gia “Vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là di sản tiếp nối trình UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.

Già làng Đônh (bìa phải) giới thiệu về chiếc nỏ của người Bahnar. Ảnh: R.H

Điểm tựa Kon Brung

(GLO)- Không chỉ tâm huyết với công tác hòa giải, già làng Đônh (SN 1960; làng Kon Brung, xã Ayun, huyện Mang Yang) còn rất tâm huyết với việc bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Với bà con, ông là điểm tựa của làng Kon Brung.

Về miền di sản

Về miền di sản

(GLO)- Những địa danh lịch sử, điểm di sản là nơi thu hút nhiều người đến tham quan, tìm hiểu. Được tận mắt chứng kiến và đặt chân lên một miền đất giàu truyền thống luôn là trải nghiệm tuyệt vời và xúc động đối với nhiều người.

Mừng lúa mới trên cao nguyên

Mừng lúa mới trên cao nguyên

(GLO)- Sau khi thu hoạch mùa vụ và đưa lúa về kho, đồng bào Jrai náo nức với lễ mừng lúa mới. Nghi lễ nông nghiệp cổ truyền độc đáo này đã được bà con duy trì từ bao đời nay.

Biến sản phẩm văn hóa thành quà tặng du lịch

Biến sản phẩm văn hóa thành quà tặng du lịch

(GLO)- Quà lưu niệm từ sản phẩm văn hóa vừa là “sứ giả” du lịch, vừa góp phần đem lại thu nhập cho người dân. Việc tổ chức các cuộc thi tay nghề đan lát, dệt thổ cẩm nhằm tìm kiếm sản phẩm đặc sắc làm quà tặng đã góp phần nâng cao đời sống người dân và thúc đẩy du lịch nông thôn phát triển.